Kể từ năm 1962 Bộ trưởng Bộ Công an quyết định thành lập Khoa Cảnh sát nhân dân (CSND) trực thuộc Trường Công an trung ương, qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành (1962 - 2018), từ Khoa CSND trực thuộc Trường Công an Trung ương năm 1962, Phân hiệu CSND trực thuộc Trường Công an trung ương năm 1965, Trường CSND năm 1968, Trường Sĩ quan CSND năm 1976, Trường Đại học CSND năm 1981, đến Học viện CSND năm 2001, Học viện CSND ngày nay đã có mô hình tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, giảng viên được coi là hoàn thiện, đầy đủ nhất trong chiều dài lịch sử của nhà trường. Nếu như năm 1968 - dấu son vàng ghi nhận sự hình thành ban đầu, Học viện CSND chỉ có 5 khoa, 3 phòng thì đến nay Học viện đã có tổng số 45 đơn vị trực thuộc với 24 khoa, bộ môn, trung tâm trực tiếp làm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học; biên chế 1067 cán bộ, chiến sĩ với số lượng Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ và Giảng viên chính đứng đầu trong các trường Công an nhân dân. Để có được những kết quả này là sự nỗ lực, cố gắng không ngừng nghỉ của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Học viện CSND nói chung và lực lượng cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ nói riêng vào sự nghiệp trồng người của Nhà trường.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn “cán bộ là gốc của mọi công việc” “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ và xác định việc xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Sau cuộc tấn công và nổi dậy năm Mậu thân - 1968 lịch sử, đáp ứng yêu cầu về đào tạo bồi dưỡng cán bộ lúc bấy giờ, phân hiệu Cảnh sát thuộc Trường Công an trung ương được tách ra độc lập thành Trường CSND. Vượt qua khó khăn, gian khổ, vừa thiếu cán bộ giảng viên, vừa thiếu các cơ sở vật chất để nghiên cứu, giảng dạy nhưng với lòng yêu ngành yêu nghề, thầy trò nhà trường vẫn miệt mài khẩn trương để hoàn thành nhiệm vụ dạy và học. “Vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến” lực lượng tổ chức cán bộ cùng tất cả cán bộ, giảng viên vừa đào tạo cho đất nước những người cán bộ Công an ưu tú, góp phần vào sự nghiệp đào tạo của ngành nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giữ gìn an ninh, trật tự mà Đảng, Nhà nước tin cậy giao cho, vừa chuẩn bị cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giảng viên và điều kiện đào tạo cao hơn.
Trong suốt quá trình phát triển của nhà trường, Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện luôn quan tâm sát sao đến công tác cán bộ, đặc biệt là chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên trực tiếp làm công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học; Công tác đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ, giảng viên Học viện được chú trọng hàng đầu như tổ chức thường xuyên các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, các lớp đào tạo trung và dài hạn phục vụ công tác giảng dạy trong nhà trường; Quan tâm, chăm lo đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời các chế độ chính sách để công tác chính sách trở thành nguồn động viên cán bộ, giảng viên phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng là hoạt động thiết thực giáo dục truyền thống cho các thế hệ cán bộ, đảng viên trẻ; Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới; chấp hành nghiêm Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước và kỷ luật phát ngôn theo quy định của Bộ Công an…
Hiện nay, Học viện CSND có 22 Giáo sư (7 Giáo sư kiêm chức), 76 Phó Giáo sư (22 Phó Giáo sư kiêm chức), 201 Tiến sĩ, hơn 400 Thạc sĩ. Tuy nhiên, số lượng đội ngũ cán bộ có trình độ cao này của Học viện vẫn còn mỏng so với các trường đại học trọng điểm quốc gia khác như với hơn hơn 1000 cán bộ, Học viện Kỹ thuật quân sự (Bộ Quốc phòng) có gần 100 Giáo sư và Phó Giáo sư, 237 Tiến sĩ khoa học và Tiến sĩ chuyên ngành, hơn 400 Thạc sĩ; với hơn 1000 cán bộ, Học viện Quân y (Bộ Quốc phòng) có gần 100 Giáo sư và Phó Giáo sư, gần 300 Tiến sĩ và 300 Thạc sĩ.
Hướng tới phát triển Học viện CSND trở thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm và đạt chuẩn Quốc gia, đáp ứng yêu cầu là Học viện Cảnh sát đầu ngành của nước lớn thứ hai trong khu vực ASEAN (sau Indonesia), tác giả xin đưa ra một số định hướng cơ bản trong công tác tổ chức cán bộ như sau:
Một là, xây dựng nhà trường trọng điểm đào tạo đa ngành, người cán bộ trước hết phải có đủ khả năng, năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Tại Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ đã nêu rõ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ là “Tổ chức bộ máy của Bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”. Theo đó, khi xây dựng Đề án “Phát triển Học viện Cảnh sát nhân dân trở thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm và đạt chuẩn quốc gia”, nhà trường đã bám sát những chủ trương này, xác định mục tiêu Học viện là trường trọng điểm đào tạo đa ngành. Bên cạnh việc tổ chức đào tạo đại học theo hướng thực hành với các ngành nghề như hiện nay, Học viện cần tổ chức đào tạo theo hướng nghiên cứu và mở rộng ngành nghề đào tạo, tập trung vào các nhóm ngành chính sau: Ngành Luật; Ngành Khoa học An ninh và Trật tự xã hội; Ngành Quản lý Nhà nước về An ninh trật tự; Ngành Ngôn ngữ; Ngành Công nghệ (Tổ chức đào tạo và cấp bằng Kỹ sư cho các chuyên ngành Công nghệ thông tin; An ninh mạng - Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; Công nghệ môi trường - Phòng chống tội phạm về môi trường…); Mở thêm các ngành nghề đào tạo mới ở trình độ đại học: Trinh sát truy nã tội phạm; Quản lý ANTT ở địa bàn cơ sở; Cảnh sát du lịch và Cảnh sát đô thị; Giáo dục Quốc phòng - An ninh. Ngoài nhiệm vụ chính là đào tạo cán bộ, chiến sĩ cho lực lượng CSND mà Bộ Công an giao, Học viện có thể mở rộng các ngành nghề đào tạo các ngành thuộc thế mạnh của nhà trường và đáp ứng nhu cầu xã hội như: Công nghệ thông tin; An ninh mạng và Bảo mật thông tin; Công nghệ môi trường; Hành chính công; Quản lý Nhà nước; Cử nhân ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Trung Quốc, tiếng Nga, tiếng Pháp)…
Đứng trước yêu cầu đó đòi hỏi người cán bộ phải có trình độ, kiến thức và kỹ năng quản lý với tầm nhìn rộng lớn hơn, kỹ năng phân tích, tổng hợp, dự báo, đánh giá bao quát hơn. Một người cán bộ trong môi trường đào tạo đa ngành không đơn thuần chỉ làm một công việc cố định trong thời gian dài mà có thể đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau trong khả năng cho phép. Điều này cũng đặt ra bài toán cho lực lượng làm công tác tổ chức cán bộ, phải tham mưu cho Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện những phương pháp, tiêu chí cụ thể để đánh giá, sử dụng cán bộ hiệu quả. Cán bộ có yên tâm công tác, thực hiện những nhiệm vụ đúng với khả năng và sở trường của mình thì hoạt động chung của tổ chức mới thực sự đạt hiệu quả.
Hai là, xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành có chất lượng, hoạt động trách nhiệm, hiệu quả.
Chuyên gia đầu ngành được hiểu là những người có kinh nghiệm, khả năng phán đoán, giải quyết vấn đề phát sinh trong công việc, được đa số cán bộ, chiến sĩ tin tưởng và ghi nhận. Tại Học viện CSND, đội ngũ chuyên gia đầu ngành được xác định có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với công tác chuyên môn của đơn vị thuộc Học viện mà còn trong việc định hướng tư duy, xây dựng và phát triển của thế hệ trẻ, lứa tuổi kế cận. Trong định hướng xây dựng nhà trường trọng điểm, Học viện cần xác định đúng nhóm chuyên gia đầu ngành với từng nhóm tiêu chí phù hợp với đặc thù từng đơn vị. Đối với khoa, bộ môn, trung tâm có chức năng giảng dạy việc lựa chọn chuyên gia đầu ngành dựa trên các tiêu chí sau: Về trình độ, độ tuổi, chức danh giảng dạy, diện quy hoạch lãnh đạo, khả năng nghiên cứu khoa học và tín nhiệm của cán bộ trong đơn vị. Đối với các đơn vị quản lý giáo dục, tham mưu, phục vụ nhóm tiêu chí tương tự như đơn vị giảng dạy, chỉ có tiêu chí cụ thể về nghiên cứu khoa học là thấp hơn và không có chức danh giảng dạy.
Học viện hiện nay có 147 đồng chí trong diện quy hoạch chuyên gia đầu ngành, toàn bộ đều là cán bộ cơ hữu thuộc biên chế nhà trường. Tuy nhiên không loại trừ khả năng có thể tạo điều kiện để một số đồng chí là giảng viên kiêm chức có đủ khả năng hiện đang công tác tại Công an các đơn vị, địa phương ngoài Học viện hoặc có thể là những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực đặc thù như Công nghệ thông tin, Quản trị mạng, Tài chính - Ngân hàng,... công tác tại các đơn vị ngoài lực lượng Công an nhân dân cùng tham gia. Học viện cần xây dựng Kế hoạch có lộ trình từng bước để bồi dưỡng, sử dụng hiệu quả nguồn lực từ đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong từng thời kỳ, từng công việc cụ thể.
Ba là, đội ngũ cán bộ phải là người tiếp cận thực tiễn và giải quyết những yêu cầu đặt ra của thực tiễn.
Trước tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta có thể nói là trên đà tăng trưởng mạnh, tình hình an ninh trật tự có nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết đối với lực lượng Công an nhân dân nói chung và đặc biệt là đội ngũ cán bộ, giảng viên Học viện CSND - trung tâm nghiên cứu khoa học đầu ngành Bộ Công an. Với việc ứng dụng những thành tựu của CMCN 4.0 có khả năng mở ra những cơ hội mới cho Học viện với sự phát triển nhanh, bền vững, sự tiếp cận những nền giáo dục hiện đại trên thế giới khi khoảng cách về mặt địa lý gần như được xóa bỏ. Song, đây cũng là thách thức lớn đối với đội ngũ cán bộ khi phải đáp ứng được thực tiễn là sự cạnh tranh gay gắt từ trường học ảo, lớp học ảo, thiết bị ảo, một mô hình đào tạo tiên tiến đang được áp dụng ở các nước phát triển, hay khả năng tiếp cận tri thức mới của học viên ngày càng được mở rộng, hay mô hình đào tạo ngành theo các binh chủng hiện có của lực lượng CSND đã đến lúc phải thay đổi...
Để tiếp cận được thực tiễn và giải quyết những yêu cầu đặt ra của thực tiễn đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải có nhận thức mới, năng lực sáng tạo và phẩm chất nghề nghiệp mới trên cơ sở chuẩn hóa, thông qua hoạt động đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kiến thức nghiệp vụ, kiến thức thực tiễn, kỹ năng sư phạm và kỹ năng mềm cần thiết. Đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, tham mưu phục vụ cũng cần được chuẩn hóa theo các chức danh được Bộ Công an quy định, gắn trực tiếp với vị trí công việc được phân công nhiệm vụ. Đội ngũ này phải có đủ năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo cao, khả năng vận dụng linh hoạt để giải quyết yêu cầu đặt ra trong tình hình mới. Phương pháp đào tạo và chương trình đào tạo hiện nay cũng cần được thay đổi cho phù hợp. Phương pháp đào tạo phải trên cơ sở lấy người học làm trung tâm và ứng dụng Công nghệ thông tin trong thiết kế bài giảng và truyền đạt kiến thức đến người học. Chương trình đào tạo đại học của Học viện hiện nay chủ yếu mới chỉ trang bị kiến thức lý luận, việc trang bị kiến thức thực tiễn, thái độ nghề nghiệp và kỹ năng tay nghề cho người học còn hạn chế; chưa lượng hóa được các tiêu chí chuẩn đầu ra theo yêu cầu bố trí lực lượng ở từng cấp Công an; các chương trình đào tạo chất lượng cao, chương trình giảng dạy bằng tiếng nước ngoài và chương trình đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ chưa có chương trình đào tạo tham khảo tương ứng của các nước phát triển đã được kiểm định bởi tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục được Bộ Giáo dục và Đào tạo thừa nhận.
Khi xây dựng Học viện trở thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm và đạt chuẩn Quốc gia, đội ngũ cán bộ cần xây dựng chương trình đào tạo dựa trên nhu cầu từ thực tiễn đấu tranh của công an các đơn vị, địa phương. Trong tình hình mới, hay sự xuất hiện ngày càng nhiều những loại tội phạm phi truyền thống tội phạm sử dụng công nghệ cao đòi hỏi đội ngũ cán bộ của nhà trường phải liên tục cập nhật kiến thức mới như đặc điểm về đối tượng phạm tội, phương thức thủ đoạn, địa bàn hoạt động,... qua nhiều kênh thông tin khác nhau để nội dung bài giảng có tính thời sự, tránh lạc hậu, thiếu nội dung cơ bản.
Bốn là, cán bộ của trường đại học trọng điểm phải đủ khả năng tham gia công việc của Chính phủ.
Việc mở rộng sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý nhà nước, xây dựng các chính sách, pháp luật ở nước ta luôn được đề cao. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân...” (Điều 2). “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân...” (Điều 6), “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý” (Điều 53). Trong sự phát huy dân chủ, Chính phủ có Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ban hành Quy chế thực hiện Dân chủ cơ sở, trong đó quy định các việc chính quyền cơ sở phải công khai xin ý kiến của nhân dân và quy định cụ thể các công việc mà người dân có quyền quyết định tại địa phương.
Đối với lực lượng Công an nhân dân, Luật Công an nhân dân 2014 quy định chức năng của Công an nhân dân: “Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội...” (Điều 14). Như vậy, các văn bản pháp lý hiện hành đã quy định khá cụ thể các hình thức, phương thức tham gia của nhân dân trong việc quản lý, xây dựng các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đối với Học viện CSND khi trở thành nhà trường trọng điểm, sự tham gia của cán bộ trong các công việc của Chính phủ phải được thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng chính sách: từ các đề xuất sáng kiến ban đầu, đến việc tiến hành triển khai xây dựng, quyết định và thi hành chính sách. Tuy nhiên, tuỳ vào tính chất của những chính sách cụ thể mà có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp, ở mức độ khác nhau. Bên cạnh đó, cần phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, đưa các đề tài mang tính ứng dụng nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà trường trọng điểm và đạt chuẩn quốc gia, người cán bộ ngày càng phải nâng cao về chất lượng, công tác tổ chức cán bộ phải dự báo được tình hình để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kịp thời, tránh những bất cập khi quy định, chế tài thay đổi, gây ảnh hưởng làm mất quyền lợi của cán bộ, giảng viên. Bên cạnh các hoạt động tổ chức đào tạo, Học viện khuyến khích cán bộ, giảng viên nhà trường tự đào tạo, tự trau dồi kiến thức chủ động hơn trong công tác chuyên môn nhà trường. Mỗi cán bộ, giảng viên Học viện CSND xác định phải luôn thay đổi bản thân, tạo dựng những chuẩn mực mới cho bản thân mình. Đó là sự hiểu biết, khả năng tiếp cận cái mới; Khả năng, nhận biết cái mới; năng lực giải quyết nhiệm vụ và đáp ứng yêu cầu chiến lược. Có như vậy, mục tiêu xây dựng Học viện CSND trở thành Học viện Cảnh sát đầu Ngành của các nước trong khu vực với đội ngũ cán bộ, giảng viên chất lượng cao sẽ sớm thực hiện được.
Thiếu tướng, PGS.TS Trần Minh Chất
Phó Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân