Đại học 4.0
Thứ Hai, 5/12/2016 23:22'(GMT+7)

Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục nghề nghiệp Việt Nam

Tương tác đa chiều mà công nghiệp 4.0 mang lại trong giáo dục

Tương tác đa chiều mà công nghiệp 4.0 mang lại trong giáo dục

1. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 với giáo dục nghề nghiệp

Cho đến nay thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) Cuộc CMCN lần thứ 4 đang được hình thành (CMCN 4.0). Cuộc cách mạng này đã và sẽ hình thành những công nghệ giúp xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học cả trong đời sống, sản xuất, cũng như trong lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp (GDNN). Những đột phá về công nghệ mới trong các lĩnh vực như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng Internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn nữa tới đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng mới (4.0) này, hệ thống GDNN sẽ bị tác động mạnh mẽ và toàn diện, danh mục ngành nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Sẽ là sự liên kết của các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, hình thành những nghề đào tạo mới, đặc biệt là những nghề liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy (ví dụ, nghề trợ lý ảo, phục vụ ảo, thư ký ảo)… Những khái niệm phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo sẽ trở thành xu hướng trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp trong thời gian tới.

2. Những vấn đề đặt ra

Theo một số dự báo, trong một số lĩnh vực, với sự xuất hiện của Robot, số lượng nhân viên sẽ giảm đi 1/10 so với hiện nay. Như vậy, 9/10 nhân lực còn lại sẽ phải chuyển nghề hoặc thất nghiệp. Cuối năm 2015, Ngân hàng Anh Quốc đưa ra một dự báo: sẽ có khoảng 95 triệu lao động truyền thống bị mất việc trong vòng 10 - 20 năm tới chỉ riêng tại Mỹ và Anh - tương đương 50% lực lượng lao động tại hai nước này và ở các quốc gia khác cũng sẽ có tình trạng tương tự.

Hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay thế vào đó là những nghề nghiệp mới. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có kỹ năng thấp và nhóm lao động có kỹ năng cao. Lao động giá rẻ không còn là lợi thế cạnh tranh của các thị trường mới nổi. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng 4.0 không chỉ đe dọa việc làm của những lao động trình độ thấp mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung (trung cấp, cao đẳng) cũng sẽ bị ảnh hưởng, nếu như họ không được trang bị những kỹ năng mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0.

Những sự thay đổi này của sản xuất và cơ cấu nhân lực trong thị trường lao động tương lai, đặt ra nhiều vấn đề đối với giáo dục Việt Nam, đó là:

- Thứ nhất, để đáp ứng được nhu cầu nhân lực có chất lượng cao và đa dạng ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế 4.0, các cơ sở GDNN phải đổi mới mạnh mẽ từ hoạt động đào tạo đến quản trị nhà trường để tạo ra những “sản phẩm”- người lao động tương lai có năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo và cạnh tranh. Tuy nhiên, hiện nay “sức ỳ” của nhiều năm đào tạo theo hướng cung với những chương trình đào tạo cứng và phương pháp đào tạo lạc hậu là lực cản của sự đổi mới này. Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến thị trường lao động thì các cơ sở GDNN, nơi cung cấp nhân lực kỹ thuật chủ yếu cho nền kinh tế vẫn đào tạo theo cách đã cũ. Kiến thức và kỹ năng của người học chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế 3.0 hiện tại, có thể sẽ hoàn toàn không hữu dụng với nền kinh tế 4.0 hoặc đang dễ dàng bị robot thay thế trong tương lai gần.

- Thứ hai, để đáp ứng nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là phương thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện đảm bảo cho sự thay đổi này vẫn còn hạn chế. Hiện nay, ở đa số các các cơ sở GDNN, sự đổi mới phương thức và phương pháp dạy và học còn khá chậm trễ; hạ tầng CNTT còn lạc hậu (ngoại trừ một số cơ sở được đầu tư thành trường chất lượng cao) và không đồng bộ.

Một số năm gần đây, trong khuôn khổ của chương trình mục tiêu quốc gia, lĩnh vực dạy nghề đã triển khai các hoạt động của dự án ứng dụng CNTT trong quản lý, hoạt động dạy và học nghề. Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dạy nghề được thiết kế, xây dựng cho phép thu thập, xử lý, cập nhật, đồng bộ thông tin dữ liệu về dạy nghề trên toàn quốc và hỗ trợ công tác tìm kiếm, thống kê, báo cáo, phân tích dự báo phục vụ cho công tác điều hành, quản lý về dạy nghề. Tuy nhiên, kết quả của dự án còn hạn chế, do mới chỉ đẩu tư lắp đặt hạ tầng đồng bộ cho 26 trường cao đẳng nghề. Bên cạnh đó, được sự phê duyệt của Bộ Lao động thương bình và Xã hội, hiện nay Tổng cục Dạy nghề đang triển khai thí điểm số hóa bài giảng, mô phỏng thực hành nghề để hình thành cơ sở dữ liệu bài giảng điện tử nhằm hiện đại hóa công tác dạy và học nghề, tiến tới hình thành cơ sở dữ liệu bài giảng điện điện tử, tài nguyên xây dựng bài giảng điện tử hỗ trợ cho công tác giảng dạy các nghề. Tuy nhiên, đây mới chỉ là các hoạt động thí điểm.

- Thứ ba, sự thay đổi trong quản trị nhà trường. Cách mạng 4.0, như đã nêu, đòi hỏi phương thức và phương pháp đào tạo thay đổi với sự ứng dụng mạnh mẽ CNTT. Đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa bài giảng sẽ là xu hướng đào tạo nghề nghiệp trong tương lai. Điều này tác động đến bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của các cơ sở GDNN. Đội ngũ này cần phải được chuyên nghiệp hóa và có khả năng sáng tạo cao, có phương pháp đào tạo hiện đại với sự ứng dụng mạnh mẽ của CNTT và điều này dẫn đến sự thay đổi về quy mô và cơ cấu giáo viên (cả về trình độ và kỹ năng), sẽ xuất hiện hiện tượng thừa và thiếu nhân lực. Tuy nhiên, với cơ chế tuyển dụng và sử dụng như hiện nay, đây là vấn đề đang được đặt ra trong các cơ sở GDNN.

- Thứ tư, cần phải đổi mới mô hình nhà trường, chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần và sẽ cần”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở GDNN với doanh nghiệp là yêu cầu được đặt ra. Mặc dù vấn đề này đã được đề cập khá lâu, nhất là từ khi có Luật dạy nghề (2006), nhưng mối quan hệ gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp; giữa đào tạo và sử dụng nhân lực qua đào tạo vẫn còn rất “lỏng lẻo”, chỉ được thực hiện một cách tự phát, trên cơ sở các mối “quan hệ” thân thiện, chứ chưa trở thành phổ biến, chưa trở thành “trách nhiệm xã hội” của các doanh nghiệp. Mới đây Luật GDNN (2015) đã có quy định cụ thể hơn về vấn đề này, tuy nhiên chưa có kết quả trên thực tế để đánh giá.

- Thứ năm, vấn đề đổi mới quản lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở đối với GDNN. Với sự xuất hiện ở những lớp học ảo, nghề ảo, chương trình ảo, và những yêu cầu của thị trường lao động với những kỹ năng sáng tạo mới, đòi hỏi có sự quản lý chung để một mặt hướng tới sự đảm bảo “mặt bằng” chất lượng; mặt khác, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế sáng tạo và cạnh tranh.

Tuy nhiên, điều này cũng đang là vấn đề của công tác quản lý cả ở cấp vĩ mô và cấp cơ sở, khi hệ thống cơ sở pháp lý đang trong quá trình bổ sung, hoàn thiện. Về mặt quản lý, để thống nhất mặt bằng chất lượng, đòi hỏi phải tiến hành xây dựng các chuẩn và tổ chức đào tạo theo hướng chuẩn đầu ra. Hiện nay, Bộ Lao động thương binh và Xã hội / Tổng cục dạy nghề đang triển khai khẩn trương các hoạt động này nhưng nguồn lực và kinh nghiệm còn hạn chế, đòi hỏi có sự hợp tác mạnh mẽ giữa các chuyên gia; giữa các tổ chức trong và ngoài nước. Mặt khác, về mặt quản lý sự chưa đồng bộ, còn chồng chéo chức năng nhiệm vụ giữa các Bộ ngành; sự chưa rạch ròi giữa các chức năng quản lý nhà nước và quản trị nhà trường là những hạn chế đã được chỉ ra và gần đây mới bước đầu được khắc phục (Nghị quyết 76 của phiên họp thường kỳ tháng 8 năm 2016 của Chính phủ).

3. Giải pháp đối với GDNN Việt Nam

Từ những vấn đề nêu trên, để nâng cao chất lượng đào tạo nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế sáng tạo, trong lĩnh vực GDNN, theo chúng tôi, cần thực hiện những giải pháp sau:

(1) Đổi mới về cơ chế chính sách

- Hoàn thiện các cơ chế chính sách đối với các chủ thể có liên quan như giáo viên, người học, cơ sở GDNN, doanh nghiệp tham gia đào tạo; hoàn thiện các cơ chế chính sách về phân bổ và sử dụng tài chính trong lĩnh vực GDNN. Trong đó, đặc biệt chú trọng tới đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cho nhà giáo GDNN. Đổi mới chính sách tiền lương đối với giáo viên GDNN phù hợp để thu hút người có kiến thức kỹ năng làm nhà giáo GDNN.

 - Tăng cường tình tự chủ trong hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường đối với các cơ sơ GDNN, nhằm tạo sự linh hoạt thích ứng với sự thay đổi của khoa học công nghệ và yêu cầu của thị trường lao động. Các cơ sở GDNN tự chịu trách nhiệm về phát triển đổi ngũ theo hướng tinh gọn, năng động, có khả năng làm việc trong môi trường cạnh tranh cao.

(2) Đổi mới quản lý GDNN, ứng dụng CNTT trong quản lý

- Cần hoàn thiện cơ chế, bộ máy quản lý nhà nước về GDNN theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, gắn với trách nhiệm; giảm dần sự can thiệp của các cơ quan chủ quản vào các hoạt động đào tạo và quản trị nhà trường; chuẩn hóa, chuyên nghiệp hóa đội ngũ quản lý GDNN ở các cấp, nhất là ở cấp địa phương; tăng cường các công cụ quản lý.

- Ứng dụng mạnh mẽ CNTT trong công tác quản lý GDNN; đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý GDNN; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về GDNN.

- Hiện đại hóa hạ tầng công nghệ thông tin trong toàn bộ hệ thống, từ trung ương tới địa phương phục vụ công tác quản lý và điều hành lĩnh vực GDNN; xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu; trung tâm quản lý, điều hành tổng thể về GDNN; đầu tư các thiết bị, hệ thống thông tin quản lý; ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động quản lý dạy, học tại các cơ sở GDNN.

- Xây dựng thư viện điện tử, hệ thống đào tạo trực tuyến; khuyến khích các cơ sở GDNN xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị ảo mô phỏng, thiết bị thực tế ảo, thiết bị dạy học thuật và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong dạy học cho các cơ sở GDNN.

(3) Đổi mới hoạt động đào tạo

- Đổi mới việc đào tạo theo mô dun, tín chỉ và phát triển đào tạo trực tuyến. Chương trình đào tạo phải được thiết kế linh hoạt, một mặt đáp ứng chuẩn đầu ra của nghề; mặt khác, tạo sự liên thông giữa các trình độ trong một nghề và giữa các nghề.

- Trong môi trường 4.0, phương pháp đào tạo cần phải thay đổi căn bản trên cơ sở lấy người học làm trung tâm và sự ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng và truyền đạt bài giảng. Cùng với đó là sự đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra trong GDNN theo hướng đáp ứng năng lực làm việc và tính sáng tạo của người học.

(4) Nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý GDNN

- Để đáp ứng yêu cầu đào tạo trong môi trường mới, đội ngũ giáo viên GDNN phải có những năng lực mới, năng lực sáng tạo và do đó đòi hỏi phải có những phẩm chất mới trên cơ sở chuẩn hóa, thông qua các hoạt động đào tạo, tự đào tạo và bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề, kỹ năng sư phạm và những kỹ năng mềm cần thiết khác

- Đổi mới chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo về nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng nghề trên cơ sở chuẩn nhà giáo GDNN.

- Thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề cho đội ngũ giáo viên GDNN ở nước ngoài và các chương trình tiên tiến ở trong nước.

- Đối với đội ngũ cán bộ quản lý GDNN, cần được chuẩn hóa, trên cơ sở chức danh nghề nghiệp, gắn với vị trí việc làm. Đội ngũ này phải có đủ năng lực làm việc trong môi trường sáng tạo cao và tự chịu trách nhiệm. Do vậy, cần tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cả trong nước và ngoài nước để đáp ứng được yêu cầu công việc. Đồng thời có cơ chế sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ và hiệu quả công tác.

(5) Phát triển đào tạo tại doanh nghiệp và gắn kết với doanh nghiêp trong hoạt động đào tạo

Trong môi trường 4.0, các hoạt động đào tạo cần phải được gắn kết với doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên cứu và triển khai. Vì vậy, một mặt đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức của doanh nghiệp. Mặt khác, tăng cường việc gắn kết giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp, trên cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hướng tới doanh nghiệp thực sự là “cánh tay nối dài” trong hoạt động đào tạo của cơ sở GDNN, nhằm sử dụng có hiệu quả trang thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học trong quá trình đào tạo và thực tập tại doanh nghiệp.

(6) Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ

- Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu công nghệ, phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý đào tạo.

- Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học trong các cơ sở GDNN, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở. Chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác người - máy.

- Hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học GDNN giữa các Viện, trường trong nước với các Viện, trường nước ngoài ở các nước tiên tiến như Cộng hòa Liên bang Đức, Hàn Quốc và các nước trong ASEAN và châu Á khác,

(7) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực GDNN

- Tăng cường các hoạt dộng hợp tác đa phương, song phương trong các lĩnh vực của GDNN như nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý; quản trị nhà trường…

- Tạo điều kiện thuận lợi về môi trường pháp lý và xã hội để các nhà đầu tư nước ngoài mở cơ sở GDNN chất lượng cao tại Việt Nam; thực hiện liên kết, hợp tác tổ chức đào tạo nghề nghiệp.

 

TS. Nguyễn Hồng Minh - Tổng cục trưởng Tổng cục dạy nghề

Nguồn: Tạp chí tự động hóa ngày nay

______________

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định phê duyệt Đề án “Ứng dụng CNTT trong quản lý hoạt động dạy và học nghề đến năm 2020”
2. Dự thảo đề án (2016), Đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN giai đoạn 2016 - 2020, Bộ Lao động thương binh và Xã hội
3. Kaus Schwab (2016) Cách mạng công nghiệp 4.0, Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos Thụy Sĩ, tháng 1/2016
4. Phan Văn Ca (2016), Vai trò của IOT trong CMCN lần thứ 4.
5. Nguyễn Thái (2016), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Thụy sĩ.

 

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện Video

Đảm bảo an toàn cho học sinh nhìn từ các vụ đi xe vào sân trường

Đảm bảo an toàn cho học sinh nhìn từ các vụ đi xe vào sân trường

(ANTV) - Mỗi một năm học mới bắt đầu, các bậc phụ huynh học sinh lại có vô vàn nỗi lo. Lo các khoản thu chi, học phí, lo con em mình có được môi trường học tập tốt hay không, có an toàn hay không? Và câu chuyện an toàn cho học sinh lại đang nóng lên trong những ngày qua. Khi dư luận vẫn chưa hết bức xúc sau vụ tông tử vong học sinh trong sân trường ở Đắk Lắk, thì cách đây hơn hai ngày, lại có thêm một phụ huynh khác lái ôtô vào sân trường THCS-THPT Chu Văn An, ở TP Móng Cái, Quảng Ninh rồi tông trúng một học sinh đi xe đạp điện.

Thư viện Ảnh

Mới nhất