Đại học 4.0
Thứ Sáu, 3/7/2020 16:24'(GMT+7)

Đổi mới GDNN trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Bộ trưởng Đào Ngọc Dung chia sẻ về đổi mới GDNN trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0

Bộ trưởng Đào Ngọc Dung chia sẻ về đổi mới GDNN trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải có một lực lượng lao động chất lượng cao để thích ứng, Bộ trưởng sẽ có những hành động cụ thể, giải pháp nào đáp ứng sự thay đổi này?

(1) Trước tiên phải Nhận diện tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0: Ảnh hưởng của CMCN 4.0, thị trường lao động Việt Nam chịu nhiều tác động liên quan đến thay đổi xu hướng việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động cũng như các yêu cầu về trình độ kỹ năng của người lao động. Nền kinh tế đang chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình dựa vào tài nguyên, lao động chi phí thấp sang kinh tế tri thức, sự thay thế sức lao động bằng máy móc, robot, trí tuệ nhân tạo. Như vậy, dù muốn hay không, cách mạng công nghiệp 4.0 với những đặc trưng bắt nguồn từ công nghệ, đang thực sự diễn ra với cả cơ hội lẫn thách thức. Cụ thể là phải ưu tiên tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, đủ năng lực cần thiết, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ và kỹ thuật. Những kiến thức và kỹ năng mà người lao động trong thời đại công nghiệp 4.0 bắt buộc phải có là công nghệ thông tin, phân tích dữ liệu, thống kê mang tính tổ chức và quy trình, khả năng tương tác giao diện hiện đại, kỹ năng tự quản lý thời gian, thích ứng với thay đổi, làm việc nhóm, giao tiếp xã hội.

(2) Nhận diện các thách thức: Bên cạnh những cơ hội, GDNN cũng đang đứng trước nhiều thách thức mới về công tác quản lý, quản trị nhà trường, chương trình, giáo trình, cơ sở vật chất, năng lực đội ngũ giáo viên... những kỹ năng mới nảy sinh, đòi hỏi người lao động cần được đào tạo kịp thời và đáp ứng phù hợp nhu cầu phát triển. Kỹ năng số và sự xuất hiện của những nghề mới trong xã hội và ngành công nghiệp là một trong những chủ đề đã được xã hội quan tâm trong thời gian gần đây.

(3) Các hoạt động Bộ đã - đang và sẽ làm:

- Phê duyệt ngành, nghề trọng điểm giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2025. Trong đó, đã lựa chọn ưu tiên đầu tư một số ngành, nghề cụ thể phục vụ trực tiếp CMCN 4.0 (thuộc các lĩnh vực như Công nghệ thông tin; Vật lý; Sinh học); các ngành, nghề về logistics, nông nghiệp công nghệ cao.

- Ban hành các môn học chung trong chương trình giảng dạy trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng, trong đó có hướng dẫn các cơ sở GDNN có thể tổ chức dạy học trực tuyến (online) các môn học này.

- Lồng ghép các yêu cầu của CMCN 4.0 vào các văn bản chỉ đạo điều hành hành về giáo dục nghề nghiệp của Bộ LĐTBXH, Tổng cục GDNN.

- Bộ đang hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm đào tạo, đào tạo lại người lao động thích ứng với cuộc cách mạng 4.0; đồng thời xây dựng Đề án đề xuất cơ chế, chính sách GDNN chủ động tham gia cách mạng 4.0 do Ban Kinh tế trung ương chủ trì.

- Các giải pháp chính sẽ tập trung vào: Đổi mới quản lý GDNN, ứng dụng CNTT trong quản lý; quy hoạch phát triển trường chất lượng cao, nghề trọng điểm để đáp ứng cách mạng công nghiệp 4.0; Chú trọng đầu tư xây dựng các chuẩn đảm bảo chất lượng (đổi mới chương trình đào tạo dựa trên các Chuẩn đầu ra và các tiêu chuẩn KNNQG; tổ chức hoạt động đào tạo theo hướng tăng cường gắn kết với doanh nghiệp; nâng cao năng lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý GDNN, nhất là năng lực về ứng dụng công nghệ trong dạy học và quản lý; cơ sở vật chất thiết bị đào tạo); chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác người - máy, người - robo; gắn kết với doanh nghiệp trong hoạt động đào tạo để theo kịp sự phát triển của công nghệ; đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ trong GDNN; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực GDNN; Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong học sinh, sinh viên ở các cơ sở GDNN.

- Trong quá trình thực hiện, chú trọng một số hoạt động cụ thể: Nghiên cứu sâu vấn đề về chỉ số năng lực cạnh tranh nhân lực, môi trường lao động, làm việc, năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực,... Nghiên cứu điều chỉnh phù hợp thực tế các chính sách thị trường lao động (như chính sách đào tạo lao động diện chính sách có công, lao động nông thôn, thanh niên, phụ nữ, đào tạo theo chế độ bảo hiểm thất nghiệp,...). Triển khai các hoạt động dự báo nhu cầu nhân lực, đặc biệt là các nhu cầu về kỹ năng để đáp ứng cách mạng công nghiệp 4.0. Quy trình hóa quan hệ hợp tác gắn kết giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp...

Đánh giá chung về vấn đề gắn kết với doanh nghiệp trong GDNN hiện nay? Nhiệm vụ, giải pháp sắp tới ra sao?
1. Về kết quả đạt được
Có thể nói, với chủ trương đúng đắn, với sự quyết liệt trong chỉ đạo, điểu hành của lãnh đạo Bộ LĐTBXH, trong các năm 2017, 2018 và 2019 việc gắn kết giữa GDNN với thị trường lao động và việc làm bền vững đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cơ chế phối hợp 3 bên: Nhà nước - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp đang bắt đầu hình thành và vận hành tốt trong thực tiễn thông qua chương trình phối hợp công tác giữa Tổng cục GDNN với Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), với các hiệp hội, các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước.

Các địa phương đã quan tâm đến hoạt động gắn kết với doanh nghiệp; các cơ sở GDNN đã chủ động hơn, thuận lợi hơn khi tìm đến doanh nghiệp; các doanh nghiệp đã tích cực hơn trong việc tiếp cận, tìm đến các nhà trường. Các kết quả hoạt động nói trên, bước đầu đã tạo nên sự chuyển biến về chất lượng GDNN, gắn đào tạo với việc làm, với thị trường lao động.

2. Về một số khó khăn, thách thức

(1)Trách nhiệm của người sử dụng lao động về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động chưa được thực hiện tốt; sự hợp tác của doanh nghiệp với cơ sở GDNN chưa cao.Doanh nghiệp còn thiếu thông tin về cơ chế, chính sách, cơ chế lợi ích khi tham gia đào tạo nghề nghiệp.

(2) Trong hợp tác với doanh nghiệp thì hình thức tiếp nhận học viên của cơ sở GDNN đến thực tập cuối khóa học tại doanh nghiệp được nhiều doanh nghiệp thực hiện hơn là các hình thức hợp tác khác.

(3) Thiếu các chế tài trong tuyển dụng, sử dụng lao động qua đào tạo của doanh nghiệp; nhiều doanh nghiệp chỉ muốn tuyển lao động phổ thông, không qua đào tạo nghề nghiệp; Doanh nghiệp chưa cung cấp nhu cầu nhân lực lao động hàng năm cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động và GDNN theo quy định của Bộ luật Lao động, Luật GDNN, nên trên thực tế các cơ sở GDNN vẫn chưa thực sự đào tạo theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp.

(4)Nhiều cơ sở GDNN chưa thiết lập được bộ phận chuyên quan hệ với doanh nghiệp; Một số địa phương chưa tích cực trong việc chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở GDNN thuộc quyền tăng cường gắn kết với doanh nghiệp; công tác báo cáo, thống kê theo quy định chưa được thực hiện nghiêm túc.

(5) Một số chương trình hợp tác đã ký kết giữa nhà trường với doanh nghiệp; nhà nước với doanh nghiệp nhưng chưa có nhiều hoạt động, chưa tìm ra được cơ chế hoạt động hiệu quả.

3. Nhiệm vụ, giải pháp gắn kết doanh nghiệp

(1) Về công tác chỉ đạo điều hành:

Tổ chức thực hiện giải pháp gắn kết giữa GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững được đề ra trong Nghị quyết số 617/2018 của Ban cán sự Đảng Bộ LĐTBXH. Xây dựng kế hoạch lồng ghép một số dự án đào tạo nghề cho các đối tượng (lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, ... ) với việc tạo và nâng cao chất lượng nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài;

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, phân tích dự báo thị trường lao động; xây dựng và triển khai Đề án “Dự báo cung – cầu lao động” nhằm nâng cao hiệu quả công tác dự báo thị trường lao độngtheo ngành, nghề để làm cơ sở hoạnh định cho công tác giáo dục nghề nghiệp và định hướng phát triển nguồn nhân lực và hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường lao động.

Chỉ đạo thu thập dữ liệu việc làm trống, thông tin về nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp; tăng cường phổ biến, cung cấp thông tin thị trường lao động, thông tin việc làm và nhu cầu sử dụng lao động cho các cơ sở GDNN; đẩy mạnh hoạt động các phiên giao dịch việc làm lưu động thực hiện ngay tại các cơ sở GDNN. Hoàn thiện website kết nối doanh nghiệp phục vụ cho công tác thông tin, chỉ đạo, điều hành.

Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở GDNN thực hiện gắn kết với các doanh nghiệp trong đào tạo (nhất là đối với 45 trường thực hiện đào tạo thí điểm 22 nghề chuyển giao từ Đức); xây dựng một số mô hình thí điểm về đặt hàng đào tạo, gắn kết với doanh nghiệp trong đào tạo; Xây dựng trình Chính phủ Đề án thí điểm đào tạo, đào tạo lại người lao động thích ứng với cuộc CMCN 4.0;

(2) Về hoàn thiện cơ chế, chính sách

Tập trung vào rà soát, hoàn thiện một số cơ chế, chính sách như: Quy định về trách nhiệm giữa doanh nghiệp và cơ sở GDNN trong việc đào tạo nguồn nhân lực, chất lượng đào tạo, điều kiện thực tập tại doanh nghiệp và đóng góp tài chính nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo; Chính sách về thành lập và hoạt động về hội đồng tư vấn cấp quốc gia, ngành, địa phương và cơ sở đào tạo (hiện mới chỉ có cơ chế, chính sách thành lập Hội đồng tư vấn ở cơ sở đào tạo);

(3) Công tác truyền thông

Đẩy mạnh truyền thông về chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp, phối hợp với VCCI tập để tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong hoạt động GDNN; Đẩy mạnh truyền thông trên trang thông tin điện tử về kết nối giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp thông qua việc quảng bá hình ảnh về giáo dục nghề nghiệp, hỗ trợ công tác tuyển sinh - hướng nghiệp- khởi nghiệp giáo dục nghề nghiệp; Tuyên truyền qua các sự kiện: Kỳ thi tay nghề quốc gia, khu vực ASEAN và thế giới; Hội giảng nhà giáo giáo dục nghề nghiệp...

Tập trung vào nội dung tôn vinh các cá nhân, tập thể điển hình về mô hình phối hợp hiệu quả giữa doanh nghiệp và cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong việc đào tạo, tuyển dụng, sử dụng học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp.

(4) Về tổ chức thực hiện các hoạt động gắn kết với doanh nghiệp

Phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa tổ chức các diễn đàn về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động làm việc trong doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nghị định số 39/2018/NĐ-CP và Thông tư của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Tăng cường đội ngũ và năng lực cán bộ thống kê, phân tích thông tin và dự báo thị trường lao động; Điều tra, khảo sát nhu cầu đào tạo về GDNN gắn với việc làm đáp ứng thị trường lao động.

Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về năng lực sư phạm, năng lực quản lý đào tạo cho cán bộ làm công tác quản lý, giảng dạy, hướng dẫn thực hành, thực tập của doanh nghiệp. Triển khai tổ chức đào tạo lại, đào tạo chuyển đổi, đào tạo thích ứng đối với đội ngũ lao động theo yêu cầu của vị trí làm việc trong doanh nghiệp ở trong nước và nước ngoài.

Tăng cường phối hợp với một số địa phương tổ chức các hội nghị gắn kết doanh nghiệp; thúc đẩy doanh nghiệp tham gia đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề cho nhà giáo và bồi dưỡng kỹ năng nghề cho người học tham gia các cuộc thi tay nghề quốc gia, ASEAN và thế giới.

Tiếp tục tổ chức ký kết các hợp tác với các hiệp hội, tập đoàn, doanh nghiệp lớn (các Hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức; các Tập đoàn lớn như Vingroup, Tập đoàn FLC, .v.v....); cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả các chương trình hợp tác gắn kết GDNN với doanh nghiệp và thị trường lao động.

Thiết kế các chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra và nhu cầu của doanh nhiệp. Lựa chọn các cơ sở GDNN để tham gia các chương trình hợp tác với doanh nghiệp (tham gia xây dựng chuẩn, chương trình, tổ chức thực hành, thực tập cho người học tại DN....).

Hình thành ban/bộ phận phối hợp với doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động ở các cấp hoạt động theo cơ chế kiêm nhiệm với sự tham gia của VCCI, đại diện cơ quan quản lý nhà nước, đại diện đơn vị sử dụng lao động, hiệp hội nghề nghiệp, tổ chức công đoàn và đại diện cơ sở GDNN với chức năng tư vấn, tham gia việc xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chính sách phát triển GDNN.

Tiếp tục thí điểm và hoàn thiện quy trình thành lập hội đồng kỹ năng ngành trong một số lĩnh vực ưu tiên với sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước về GDNN, các bộ, ngành, các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động và hiệp hội nghề nghiệp (hiện đang triển khai ở một số dự án).

Xin cảm ơn Bộ trưởng!

 
Nguồn Báo điện tử Thời báo Kinh doanh

Phản hồi

Các tin khác

Thư viện Video

Thủ đoạn dùng app ngân hàng giả để lừa đảo

Thủ đoạn dùng app ngân hàng giả để lừa đảo

(ANTV) - Trong thời đại số hóa, thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên phổ biến vì theo tác đơn giản và thuận tiện. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của công nghệ, những thủ đoạn lừa đảo tinh vi cũng không ngừng gia tăng. Một trong những thủ đoạn mà các đối tượng thường xuyên sử dụng gần đây là cài đặt các dụng ứng dụng ngân hàng giả mạo để lừa đảo chuyển tiền.

Thư viện Ảnh

Mới nhất