1. Giáo dục 4.0 - Khái niệm, đặc trưng và tác động của nó đến giáo dục lý luận chính trị
Giáo dục 4.0 được hiểu là giáo dục thông minh (Smart Education). Chữ Smart không chỉ chứa đựng hàm ý “thông minh”, mà cụm từ viết tắt S-M-A-R-T còn được diễn giải nhiều nghĩa hơn: S (Self-directed là Tự định hướng); M (Motivated là Có động cơ); A (Adaptive là Có khả năng tương thích); R (Resource enriched là Có nguồn học liệu phong phú); T (Technology embedded là Có áp dụng công nghệ). Như vậy, giáo dục thông minh là nền giáo dục có sự hỗ trợ rất nhiều của công nghệ, cung cấp cho người học chương trình học tập “mọi lúc, mọi nơi”, phù hợp với nhiều đối tượng đào tạo khác nhau (khả năng thích nghi cao), cá nhân hóa nội dung đào tạo. Giáo dục thông minh có sự ứng dụng rộng rãi công nghệ trong mọi hoạt động đào tạo, NCKH, công tác quản lý, phương pháp dạy học hiện đại...
Mô hình giáo dục thông minh cần sự liên kết chặt chẽ giữa “3 nhà” đó là nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc đổi mới, sáng tạo để không ngừng làm gia tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động trong nền kinh tế tri thức. Theo đó, mô hình Giáo dục 4.0 cũng thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp của sinh viên; tạo điều kiện cho sự hợp tác giữa giáo dục đại học với sản xuất; gắn kết cùng các nỗ lực phát triển kinh tế khu vực và địa phương... Nó giúp cho hoạt động dạy và học diễn ra mọi lúc, mọi nơi, giúp cho người học có thể cá nhân hóa và hoàn toàn chủ động quyết định nội dung, phương thức học tập theo nhu cầu của bản thân. Nó cũng giúp thay đổi tư duy cũng như cách tiếp cận đối với mô hình đại học theo hướng: nhà trường không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang giá trị cho xã hội. Không gian “nhà trường” không còn giới hạn trong các bức tường của giảng đường, lớp học hay phòng thí nghiệm, mà được mở rộng kết hợp với doanh nghiệp và thị trường lao động để trở thành “hệ sinh thái giáo dục”.
Độ phức tạp của đời sống xã hội hay của “thế giới bên ngoài” được phản ánh thông qua những chuẩn đầu ra (chuẩn hóa đầu ra) trong nội dung, chương trình đào tạo và chuẩn hóa đi đôi với đơn giản hóa quá trình đào tạo.
Sự “cá biệt hóa” cần thiết cho sinh viên trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện ở đại học được dựa trên năng lực tự tổ chức của cả cá nhân lẫn tập thể sinh viên (tổ, nhóm, lớp) thông qua việc xác định rõ mục đích học tập của riêng mình - điều kiện tiên quyết cho phát triển năng lực của mỗi sinh viên.
Trước thách thức là “tính liên môn” và “tính xuyên suốt các môn học” tăng lên làm cho hàng loạt môn học, ngành học ngày càng lỗi thời, nên trong quá trình học tập, mỗi sinh viên cần thấy được cấu trúc tổng quát của chương trình học tập để chủ động tích hợp kiến thức cần thiết cho riêng mình.
Trong quá trình học tập, nhất là tự học, cần phải trang bị công cụ để mỗi sinh viên có thể tự trắc nghiệm kiến thức của mình thông qua việc giải quyết những bài tập, câu hỏi trắc nghiệm hay những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Trước những thông tin cần thiết cho sinh viên đang có sẵn ở khắp nơi (sách, bài báo, tạp chí, website...) thì thách thức đặt ra là làm sao để khai thác và sử dụng một cách hiệu quả những kênh thông tin này bằng các công cụ, phương tiện hiện đại hiện có.
Khái niệm “Học” (learning) được coi là một loại hình hoạt động xã hội. Khái niệm “Học từ xa” hay “Học trực tuyến” (E-learning) đang dần được thay thế bằng khái niệm “Học suốt đời” (Long live WE-learning ). Do vậy, phải mở rộng tối đa khuôn viên nhà trường để mọi sinh viên sử dụng không gian này làm chỗ gặp mặt, cọ sát, đọ sức, thảo luận, giao lưu và kết nối; phải tạo ra môi trường, bối cảnh xã hội thích hợp, dân chủ hơn để sinh viên tranh luận và giải quyết các vấn đề thực tế đang tồn tại, mâu thuẫn đặt ra trong cuộc sống.
Mô hình chuyển giao kiến thức theo cách độc thoại giữa giảng viên với sinh viên ngày càng không tạo ra giá trị gia tăng. Điều đó cho thấy cách giảng bài truyền thống kém hiệu quả hơn so với các hình thức dạy - học tích cực. Yếu tố “môi trường học tập” ngày càng trở nên quan trọng cho quá trình nhận thức của sinh viên, nên cần phải thiết kế và bố trí những không gian làm việc riêng cho sinh viên (tạo sự độc lập tương đối khi học tập, nghiên cứu), điều đó sẽ tạo thuận lợi cho những tư duy mới, tư duy đột phá, tư duy sáng tạo ra đời.
Với những đặc trưng cơ bản nêu trên, giáo dục thông minh đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động của các trường đại học, trong đó có giáo dục lý luận chính trị (GDLLCT). Nó làm cho GDLLCT bảo đảm tính toàn diện cả về kiến thức và kỹ năng để sinh viên tốt nghiệp có thể đáp ứng được ngay và lâu dài nhu cầu của thị trường lao động; làm cho hoạt động GDLLCT trong trường đại học luôn có sự đổi mới kịp thời về cả mục tiêu, nội dung, chương trình, mô hình, phương pháp giáo dục; làm cho mô hình hợp tác giữa đào tạo - nghiên cứu - kinh doanh ngày càng phát triển; làm cho hoạt động dạy - học ngày một tích cực hơn, chú trọng xây dựng ý thức tự học, ý thức học tập suốt đời và các kỹ năng mềm cho sinh viên; làm cho trình độ khoa học công nghệ và kỹ năng công nghệ thông tin của đội ngũ cán bộ, giảng viên được nâng lên tương xứng với hệ thống trang, thiết bị công nghệ hiện đại và đồng bộ được bảo đảm trong môi trường dạy - học thông minh.
2. Những yêu cầu đặt ra đối với giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học hiện nay
Sự tác động của giáo dục 4.0 đến hoạt động GDLLCT trong các trường đại học hiện nay ở nước ta đang đặt ra những yêu cầu bức thiết cần phải giải quyết, đó là:
Thứ nhất, phải củng cố niềm tin, giữ vững ổn định chính trị - tư tưởng, tăng cường định hướng dư luận xã hội trước những vấn đề mới nảy sinh.
Trước sự tác động mạnh mẽ từ CMCN 4.0 đến mọi mặt của đời sống xã hội, rất nhiều vấn đề mới nảy sinh theo cả hướng tích cực lẫn tiêu cực, nhiều thành tựu KHCN mới xuất hiện, nhiều ngành nghề mới ra đời trong chương trình đào tạo của các trường đại học,... nên rất dễ làm cho đội ngũ cán bộ, giảng viên (nhất là những người trình độ chuyên môn hạn chế, tư duy thủ cựu, sống an phận) và sinh viên đại học bị “choáng” trước sức mạnh của “công nghệ”, dẫn đến xu hướng hoặc là cường điệu hóa vai trò của máy móc, robot, công nghệ, chạy theo thuyết “kỹ trị” mà không hiểu được bản chất của kỹ thuật, công nghệ chỉ là công cụ để con người tồn tại và phát triển; hoặc do tư tưởng bảo thủ, trì trệ mà e dè, sợ sệt, không dám tìm hiểu, nghiên cứu những công nghệ mới nên dần đánh mất niềm tin vào khả năng của chính bản thân mình, không tin vào sức mạnh trí tuệ của con người; hoặc là bị hoang mang, dao động do bị nhiễu loạn thông tin trên không gian mạng thông qua các công cụ truyền thông, các mạng xã hội...; hoặc do tâm lý a dua, hội chứng đám đông, tư tưởng chạy theo phong trào mà không cần quan tâm tìm hiểu rõ bản chất của nó ra sao, nguyên lý hoạt động của nó như thế nào, để từ đó xử lý hay có sự lựa chọn của riêng mình cho phù hợp. Do vậy, hoạt động GDLLCT trong các trường đại học cần tập trung củng cố niềm tin, giữ vững sự ổn định về chính trị - tư tưởng, tăng cường định hướng dư luận xã hội trước những vấn đề mới nảy sinh cho cả chủ thể lẫn đối tượng giáo dục trong các trường đại học kịp thời.
Thứ hai, góp phần xây dựng con người mới với những chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp.
Triết lý giáo dục của phương Tây đã khẳng định: Sự thiếu hụt (khiếm khuyết) về tài năng hoàn toàn có thể bù đắp bởi đạo đức, song sự thiếu hụt (khiếm khuyết) về đạo đức thì không thể bù đắp bởi tài năng. Còn đối với văn hóa phương Đông, trải qua bề dày mấy ngàn năm lịch sử, tư tưởng Nho giáo đã trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, ăn sâu, bám rễ vào đời sống nhân dân thì vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho con người rất được chú trọng, đề cao vì nó luôn được coi là nền tảng để hình thành nhân cách. Trong xã hội hiện đại đang tồn tại một nghịch lý là khi kinh tế phát triển, đời sống ngày một được nâng lên thì đạo đức của con người dường như lại lại càng ngày càng bị suy thoái, xuống cấp; niềm tin giữa con người với con người ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Trước thực trạng đó, GDLLCT với chức năng của mình cần phải tích cực góp phần xây dựng con người mới với những chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp (đạo đức công dân, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp) cho cả cán bộ, giảng viên và sinh viên. Bởi vì, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, sự phát triển “nóng” của nền kinh tế thị trường khi “chủ nghĩa cá nhân” hay “dục vọng” của con người được “kích hoạt” thì họ có thể tìm mọi cách để lách luật, vượt luật với rất nhiều mánh khóe, thủ đoạn (nhất là khi được sự hậu thuẫn, hỗ trợ về mặt công nghệ hiện đại một cách rất tinh vi) để lừa lọc, biến của công thành của tư, lũng đoạn kinh tế, làm giàu bất chính... mà gần như luật pháp không thể can thiệp được, song đạo đức lại hoàn toàn có thể điều chỉnh được một cách hiệu quả dựa trên sự tự nhận thức, tự giác ngộ để từ đó đánh thức lương tâm, danh dự, trách nhiệm của mỗi người.
Thứ ba, trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học, thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực, đẩy mạnh hoạt động tự nghiên cứu, gắn chặt đào tạo với nghiên cứu một cách hiệu quả.
Trước tác động mạnh mẽ, đa chiều của giáo dục 4.0 đến hoạt động đào tạo của các trường đại học, ngoài việc củng cố thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho sinh viên thì cũng rất cần có sự cập nhật, đổi mới kịp thời về phương pháp GDLLCT đối với cả người dạy và người học để phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy hoạt động NCKH bằng cách trang bị cho sinh viên phương pháp nghiên cứu và những công cụ cần thiết, tạo môi trường thuận lợi để họ có thể chủ động sáng tạo ra những tri thức mới, góp phần bổ sung, phát triển lý luận và nâng cao chất lượng, hiệu quả GDLLCT cũng như đào tạo.
Thứ tư, phải cập nhật thường xuyên, kịp thời những thành tựu khoa học công nghệ nói chung, CNTT nói riêng cho cán bộ, giảng viên LLCT và sinh viên để họ có đủ công cụ, phương tiện dạy và học một cách thông minh hơn.
Cơ sở của Cách mạng công nghiệp 4.0 là sự kết hợp giữa hai thế giới thật - ảo thông qua hệ thống phần mềm tương ứng của các thiết bị CNTT, kỹ thuật số và kết nối mạng, do vậy những kiến thức và kỹ năng về CNTT, kỹ thuật số, ngôn ngữ giao tiếp với máy tính và ngoại ngữ có vai trò rất quan trọng đối với các cơ sở đào tạo đại học cũng như mỗi sinh viên - vì đây là những công cụ hiện đại hỗ trợ đắc lực cho hoạt động giáo dục, đào tạo nói chung, cũng như GDLLCT nói riêng trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Do vậy, nhiệm vụ rất quan trọng của các cơ sở đào tạo đại học hiện nay là phải đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật thường xuyên và kịp thời những kiến thức liên quan nêu trên cho đội ngũ cán bộ, giảng viên LLCT (những người vốn ít có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với khoa học công nghệ) và cho lực lượng sinh viên (tạo ra động lực, phát huy tính tích cực, chủ động của người học) để họ có đủ công cụ, phương tiện để có thể giảng dạy và học tập một cách thông minh trong môi trường Cách mạng công nghiệp 4.0.
Thứ năm, phải chỉ ra xu thế phát triển của thời đại cùng với đó là dự báo về sự chuyển dịch cơ cấu lao động để định hướng cho hoạt động đào tạo đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp mà xã hội cần và giúp cho sinh viên tốt nghiệp có khả năng thích nghi với sự biến động thường xuyên về việc làm trong tương lai.
Vấn đề “việc làm” và “thất nghiệp” là những vấn đề thường trực và mang tính thời sự trong Cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là giai đoạn đầu khi lực lượng lao động chưa thích nghi và đáp ứng được ngay những điều kiện mới với yêu cầu khắt khe hơn của mỗi ngành nghề, cũng như sự dịch chuyển lớn về cơ cấu lao động giữa các ngành nghề. Thực tế đã cho thấy, cùng với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo thì rôbốt đã bắt đầu tham gia tích cực vào thị trường lao động để thực hiện các công việc phổ thông hay những công việc nguy hiểm thay cho con người. Với nguồn học liệu gần như vô tận khai thác từ cơ sở dữ liệu siêu việt thì rôbốt có thể đảm nhiệm công việc của một giảng viên khi giảng dạy một số môn học như văn hóa, địa lý, lịch sử... Và ở các lĩnh vực nghề nghiệp như tư vấn pháp luật, kế toán và tư vấn thuế cũng có thể bị thay thế hoàn toàn bởi các rôbốt thông minh trong tương lai không xa. Vì thế, GDLLCT trong các trường đại học với chức năng hướng nghiệp, phải chỉ ra cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh viên thấy được xu thế phát triển của thời đại cùng với đó là dự báo về sự chuyển dịch cơ cấu lao động để định hướng cho hoạt động đào tạo đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp mà xã hội cần, tăng khả năng thích nghi và khả năng sáng tạo ra những nghề mới. Phải giúp cho sinh viên luôn có một tâm thế mở, biết biến thách thức thành cơ hội, biến ý tưởng thành hiện thực, luôn chủ động đổi mới, sáng tạo trong công việc tương lai trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.
3. Kiến nghị một số giải pháp đổi mới giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học thời gian tới
Từ những yêu cầu đặt ra đối với GDLLCT trong các trường đại học dưới tác động của nền giáo dục 4.0, để có thể đổi mới hoạt động này trong thời gian tới, thiết nghĩ cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp mang tính đột phá sau:
Thứ nhất, về nội dung GDLLCT. Hiện nay chủ trương tách môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trả lại thành ba môn học như trước (Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, CNXH khoa học) là phù hợp với thực tiễn khách quan vì mặc dù đều chứa đựng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, song vốn dĩ nó là ba môn học thuộc ba bộ môn khoa học khác nhau nên có đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu riêng. Tuy nhiên, trên tinh thần đổi mới, đề nghị Hội đồng Lý luận Trung ương và các bộ, ban ngành cần nghiên cứu kỹ về tính phù hợp của từng nguyên lý trong điều kiện thực tiễn Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay xem quan điểm lý luận nào đã bị thực tiễn vượt qua để bổ sung, phát triển nhằm bảo đảm “sức sống” cho lý luận Mác - Lênin. Mặt khác, trong từng môn học cụ thể nên điều chỉnh nội dung theo hướng vừa bảo đảm giữ được những vấn đề có tính nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa bổ sung thêm những vấn đề lý luận mới đã được thực tiễn kiểm nghiệm và đúc kết qua hơn 30 năm đổi mới của Đảng nhưng không làm ảnh hưởng đến việc giảm tải về chương trình (rút ngắn thời gian học tập LLCT cũng như tổng thời gian đào tạo).
Thứ hai, về chương trình GDLLCT. Do tính khái quát hóa, trừu tượng hóa của triết học rất cao, nên hầu hết sinh viên đều thấy khó tiếp thu và hiểu được bản chất vấn đề khi học tập môn Triết học Mác - Lênin (vì nó được bố trí học ngay từ học kỳ đầu tiên trong chương trình đại học, cao đẳng đối với khối không chuyên về khoa học xã hội) trong khi sinh viên mới bước vào trường đại học chưa có sự trải nghiệm thực tiễn nhiều, chưa có phương pháp học tập khoa học. Do vậy, để bảo đảm tính lôgíc trong quy luật nhận thức “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” của sinh viên, trong thiết kế nội dung, xây dựng chương trình GDLLCT nên bố trí cho sinh viên học những môn có tính thực tiễn cao, tính lý luận thấp trước, sau đó dần dần giảm tính thực tiễn và tăng tính lý luận ở những môn học sau sẽ hiệu quả hơn. Theo đó, thứ tự học các môn LLCT trong chương trình GDLLCT ở bậc đại học, cao đẳng nên sắp xếp lại theo trật tự từ: Pháp luật đại cương, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (hay Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam), Tư tưởng Hồ Chí Minh, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Triết học Mác - Lênin.
Thứ ba, về phương pháp GDLLCT. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu, song thực tế hiện nay đa số sinh viên các trường (nhất là sinh viên năm đầu) vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về phương pháp học tập, nghiên cứu ở bậc đại học, cao đẳng. Trong khi đó, trong chương trình đào tạo nói chung, chương trình GDLLCT nói riêng của các nhà trường thì nội dung này mới chỉ lồng ghép vào phần mở đầu của mỗi môn học, bài học chứ hầu như chưa bố trí đưa vào chương trình đào tạo chính. Do vậy, để bảo đảm trang bị cho sinh viên phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học phù hợp, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên trong môi trường giáo dục 4.0 thì nên đưa môn học “Phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học” vào chương trình GDLLCT và thực hiện ở ngay học kỳ đầu tiên của chương trình đào tạo đại học, cao đẳng.
Thứ tư, về hình thức thi đánh giá kết quả GDLLCT. Theo nguyên tắc thi thế nào sẽ học thế nấy, hơn nữa chất lượng và hiệu quả GDLLCT thường được thể hiện qua kết quả thi của từng học phần, tín chỉ. Nếu như trước đây việc tổ chức thi chủ yếu để đánh giá kiến thức mà học viên, sinh viên thu lượm được, thì ngày nay các kỹ năng cần thiết (nhất là các kỹ năng mềm và kỹ năng về CNTT) để sinh viên tốt nghiệp có thể hoàn thành nhiệm vụ theo chuyên môn được đào tạo chính là vấn đề cần được quan tâm và chú trọng để tạo ra đột phá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động GDLLCT. Để đánh giá kiến thức và kỹ năng về LLCT của sinh viên một cách toàn diện, cần chuyển đổi hình thức thi từ tự luận sang trắc nghiệm khách quan hoặc kết hợp trắc nghiệm với tự luận thông qua việc sử dụng các phần mềm ứng dụng CNTT, hệ thống máy tính kết nối mạng LAN hoặc internet, các phòng thi bằng máy vi tính... Nói cách khác là phải đặt hoạt động thi, đánh giá trong môi trường CNTT triệt để nhất để phục vụ việc thi, đánh giá kết quả GDLLCT một cách khách quan, chính xác, nhanh chóng, thuận tiện nhất.
Thứ năm, về bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ GDLLCT. Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra những yêu cầu rất cao đối với nguồn nhân lực, trong đó sinh viên các trường đại học, cao đẳng là lực lượng chủ yếu để bổ sung cho nguồn lực này. Trong khi đó, môi trường đại học thông minh chính là nơi học tập, nghiên cứu, thử nghiệm của nguồn nhân lực chất lượng cao, mà với môi trường đại học thông minh thì CNTT là yếu tố cốt lõi, cơ bản nhất. Do vậy, để có thể ứng dụng CNTT vào hoạt động GDLLCT một cách hiệu quả, bảo đảm sự tương tác, trao đổi thông tin giữa giảng viên - giảng viên, giữa giảng viên - sinh viên, giữa sinh viên - sinh viên được thường xuyên, đầy đủ, kịp thời và bảo đảm tổ chức triển khai hoạt động GDLLCT được thông suốt thì mỗi nhà trường nên kịp thời đầu tư, xây dựng hệ thống hạ tầng CNTT (internet, wifi, thiết bị phần cứng, camera, cảm biến...) cho phù hợp, hiện đại, đồng bộ để có thể kết nối vạn vật, dạy - học online, hội thảo trực tuyến... trước hết trong từng khoa, từng trường. Đồng thời, nên thường xuyên tổ chức đào tạo, hướng dẫn, tập huấn về kỹ năng quản lý, khai thác, sử dụng các trang thiết bị CNTT, nhất là công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, cũng như cập nhật những công nghệ mới cho cán bộ, giảng viên, sinh viên để họ không bị “tụt hậu” trong cuộc đua KHCN hiện nay.
Trong xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ cho hoạt động GDLLCT cần chú trọng phát triển hệ thống sách điện tử, kho dữ liệu số để đồng bộ với hệ thống CNTT nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu khai thác cơ sở dữ liệu, sách điện tử cho người học, ngoài những công cụ mạnh hiện đang sử dụng và phát huy tác dụng như internet, truyền hình, phát thanh, báo chí... cũng cần quan tâm xây dựng và phát huy tác dụng của các mạng xã hội như Facebook, Zalo, Twi74tter,... để vừa bảo đảm tính đa dạng trong công cụ tuyên truyền, vừa tranh thủ được sức mạnh lan tỏa của các mạng xã hội hiện đang rất thịnh hành, phát triển ở cả trong và ngoài nước.
Như vậy, nền giáo dục 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ đến môi trường đại học, nó đặt ra những yêu cầu mới cho GDLLCT trong các trường đại học (với chức năng định hướng tư tưởng - chính trị, hướng nghiệp, củng cố đạo đức cách mạng cho cán bộ, giảng viên, nhất là sinh viên...) nhằm góp phần xây dựng ý thức chính trị, trách nhiệm công dân, bản lĩnh dân chủ, kỹ năng cần thiết cho mỗi sinh viên, giúp họ hoàn thiện nhân cách để trở thành những chủ nhân của đất nước, những “công dân toàn cầu” trong tương lai không xa.
________________________
Tài liệu tham khảo:
1. Tạ Việt Dũng, Trần Anh Tú: “Cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học” đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống nhà trường Quân đội”, 2018.
2. Trần Thanh Điện - Nguyễn Thái Nghe: Các mô hình E-Learning hỗ trợ dạy và học”, Tạp chí Khoa học - Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề CNTT 2017.
3. Ngô Vũ Thu Hằng: “Giáo dục dựa vào bối cảnh: Một cách tiếp cận giáo dục tiên tiến”, Tạp chí Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 3-2016.
4. Đàm Quang Minh - Phạm Hiệp: “Cách mạng công nghiệp 4.0 và nguy cơ “thua trắng” của đại học truyền thống”, Báo Tuổi trẻ điện tử, ngày 7-9-2016.
5. Học viện Kỹ thuật quân sự: Đại học thông minh, Chuyên san số ra tháng 8-2018.
6. Ngô Xuân Lịch: “Xây dựng nhà trường thông minh, nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ quân đội trước tác động từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, Báo Quân đội nhân dân, số 20700, ngày 19-11-2018.
7. TS Lê Đông Phương: “Cách mạng công nghiệp 4.0 và ảnh hưởng đến giáo dục đại học Việt Nam” đăng trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với hệ thống nhà trường Quân đội”, 2018.
8. TS Phan Quang Trung - Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng: “Giáo dục đại học phải làm gì trước thách thức của cách mạng công nghiệp 4.0?”, Báo điện tử giaoduc.net.vn số ra ngày 22-7-2017.
9. GS Phan Văn Trường - Cố vấn của Chính phủ Pháp về thương mại quốc tế: “Ngành giáo dục “đón đầu” cuộc Cách mạng 4.0 ra sao?”, Báo điện tử baoquocte.vn, ngày 14-4-2017.
10. Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự: Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đến sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học, 2017.