(TG) - Cách mạng công nghiệp 4.0 khiến thị trường lao động chuyển hóa sang một giai đoạn phát triển mới với việc hình thành thế giới việc làm 4.0. Điều đó buộc giáo dục nghề nghiệp phải đổi mới. Yêu cầu bức thiết hiện nay không phải là đổi mới về chủ trương, chính sách mà là đổi mới về tổ chức thực hiện.
1. Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) là lĩnh vực có quan hệ mật thiết nhất và trực tiếp nhất với thị trường lao động. Khác với giáo dục đại học (GDĐH), GDNN có mục đích đào tạo nhân lực từ trình độ sơ cấp trở lên có khả năng làm việc ngay và trực tiếp một công việc cụ thể trong thị trường lao động.
Chủ trương, chính sách của Việt Nam trong hội nhập quốc tế về giáo dục nói chung, GDNN nói riêng được thể hiện khá rõ bằng nhiều văn bản luật và dưới luật. Bên cạnh Nghị định số 73/2012/NĐ-CP ngày 26-9-2012 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020 theo Quyết định số 2448/QĐ-TTg ngày 16-12-2013 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định: “Đến năm 2020, phát triển một số cơ sở GDĐH và dạy nghề đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và dạy nghề tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của các nước; tiến tới công nhận văn bằng, chuyển đối tín chỉ và kỹ năng nghề giữa Việt Nam và các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới...”
Luật GDNN cũng đã xác định mục tiêu hợp tác quốc tế trong GDNN là: “Nâng cao chất lượng GDNN theo hướng hiện đại, tiếp cận nền GDNN tiên tiến trong khu vực và trên thế giới”. Các hình thức hợp tác quốc tế trong GDNN cũng được xác định như: liên kết đào tạo, thành lập văn phòng đại diện của cơ sở GDNN nước ngoài tại Việt Nam; hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học; bồi dưỡng, trao đổi nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp và người học; trao đổi thông tin phục vụ hoạt động đào tạo, cung ứng chương trình đào tạo, trao đổi các ấn phẩm, tài liệu và kết quả hoạt động đào tạo; tham gia các tổ chức giáo dục, hội nghề nghiệp khu vực và quốc tế; mở văn phòng đại diện cơ sở GDNN của Việt Nam ở nước ngoài….
Với chủ trương, chính sách, thể chế được quy định trong Nghị quyết của Đảng, Luật Giáo dục, Luật GDNN và các nghị định của Chính phủ, hoạt động hợp tác quốc tế trong GDNN của nước ta đã diễn ra sôi nổi thông qua việc triển khai nhiều dự án, chương trình quan trọng như Dự án kỹ năng nghề Việt Nam của Canada, Chương trình đổi mới đào tạo nghề của Đức (GIZ), Chương trình gắn kết với doanh nghiệp của Đan Mạch, Dự án Aus4skills của Úc, Dự án Tăng cường lĩnh vực GDNN tại Việt Nam của JICA….
Tuy nhiên, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) và thực tế triển khai GDNN thời gian qua cho thấy, hội nhập quốc tế về GDNN của nước ta cũng có những vấn đề cần phải xem xét lại cả về tư duy chiến lược và tổ chức thực hiện.
Thứ nhất, một mục tiêu chiến lược có liên quan đến trường nghề đẳng cấp quốc tế liệu có cần thiết và khả thi. Khái niệm đẳng cấp quốc tế được sử dụng chủ yếu trong GDĐH dẫn đến việc xếp hạng đại học, nhưng cho đến nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất thế nào là đại học đẳng cấp quốc tế. Trên thực tế hiện chưa có bất cứ hệ tiêu chí nào để xác định đẳng cấp quốc tế của một trường nghề. Vì vậy, có thể nói việc đặt ra mục tiêu này, cũng như trong chính sách chung về phát triển nhân lực Việt Nam còn “thiếu sự hỗ trợ của các phân tích chuyên sâu”.
Thứ hai, trong khi việc triển khai Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020 đang thực hiện, thì ngày 7-1-2016 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 40/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, trong đó hội nhập quốc tế về GDNN được đặt trong chiến lược tổng thể bao gồm hội nhập kinh tế quốc tế; hội nhập chính trị, quốc phòng, an ninh; hội nhập văn hóa, xã hội, dân tộc, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và các lĩnh vực khác. Chính vì vậy, hiện nay không rõ Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghềđến năm 2020 đã được thực hiện đến đâu và còn có hiệu lực thi hành nữa hay không, nhưng theo Quyết định số 40/QĐ-TTg thì “Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ theo chức năng và nhiệm vụ thực hiện Chiến lược trong phạm vi thẩm quyền của mình, cụ thể hóa Chiến lược bằng các kế hoạch, đề án trong các ngành, lĩnh vực mình phụ trách”. Ở đây có một vấn đề được đặt ra: Việc ban hành một chiến lược tổng thể là cần thiết và đúng lúc; tuy nhiên, do thiếu sự gắn kết giữa Chiến lược tổng thểhội nhập quốc tế và Đề án hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề nên lại tiếp tục tạo ra một khoảng cách không đáng có giữa chủ trương và tổ chức thực hiện.
Thứ ba, một kết quả đáng ghi nhận trong thời gian qua là Việt Nam đã ban hành Khung trình độ quốc gia (KTĐQG) theo Quyết định số 1982/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đây là công cụ quản lý hiện đại góp phần nâng cao tính minh bạch về chuẩn đầu ra của các trình độ đào tạo, mở đường cho việc công nhận lẫn nhau về trình độ, qua đó nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực trong khu vực và quốc tế. Gần đây, KTĐQG mới chỉ được cụ thể ở GDĐH theo Quyết định số 436/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30-3-2020 về việc ban hành Kế hoạch thực hiện KTĐQG Việt Nam đối với các trình độ của giáo dục đại học, giai đoạn 2020 - 2025; còn chưa được cụ thể hóa cho từng trình độ, từng ngành nghề và lĩnh vực đào tạo của GDNN, khiến việc tổ chức thực hiện KTĐQG và mọi tác động tích cực hướng tới các chuẩn mực quốc tế trong GDNN vẫn chuyển biến chậm.
Thứ tư, cùng với việc học tập kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng KTĐQG, chúng ta cũng cần học tập việc phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở GDNN. Luật GDNN đã có những quy định khá rõ về vấn đề này. Tuy nhiên, đến nay việc triển khai thực hiện còn chậm và lúng túng, có rất ít các cơ sở GDNN triển khai tự chủ. Điều đó tác động tiêu cực đến khả năng ứng phó của cơ sở GDNN trước một thị trường lao động ngày càng có những đòi hỏi mới và cao hơn về kỹ năng người lao động.
Thứ năm, trong hội nhập quốc tế về GDNN, mục tiêu thường được đặt ra là cung cấp cho người lao động những kỹ năng theo chuẩn quốc tế để đáp ứng các yêu cầu của thị trường lao động quốc tế hóa. Đối với nước ta đang hội nhập quốc tế sâu rộng thì yêu cầu này được đặt ra mạnh mẽ. Tuy nhiên, với trình độ kinh tế hiện nay, yêu cầu kỹ năng theo tiêu chuẩn quốc tế chỉ đặt ra trong phạm vi hẹp, giới hạn trong doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp hướng tới xuất khẩu. Còn lại đại bộ phận lao động làm việc trong một thị trường tạo bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ với những yêu cầu kỹ năng khác biệt. Vì vậy để việc cung cấp kỹ năng trong hội nhập quốc tế thực sự phù hợp, rất cần xây dựng một bản đồ kỹ năng để làm rõ yêu cầu kỹ năng cho từng trình độ và ngành nghề, trong từng loại doanh nghiệp. Điều này cũng chưa thể làm được chừng nào KTĐQG chưa tiếp tục được hoàn thiện ở các cấp trong hệ thống giáo dục.
Thứ sáu, kinh nghiệm quốc tế hiện nay trong đào tạo nghề là đẩy mạnh đào tạo theo phương thức học nghề. Phương thức này hiện được coi là cả ba bên cùng có lợi: doanh nghiệp lợi vì có nhân lực phù hợp; người học được hưởng lợi vì có ngay việc làm tốt; nhà trường có lợi vì đào tạo có hiệu quả. Đây cũng là phương thức truyền thống ở nước ta và vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt ở các làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, với xu thế chính quy hóa việc đào tạo nghề, lâu nay chúng ta đã đặt trong tâm vào đào tạo trong nhà trường, lớp và coi nhẹ học nghề. Đã đến lúc cần tư duy lại về các phương thức đào tạo, học tập kinh nghiệm quốc tế trong việc phát triển học nghề với các chương trình đào tạo, cùng hệ thống văn bản chứng chỉ phù hợp nhằm khuyến khích người học theo đuổi học nghề, học tập suốt đời
2. CMCN 4.0 khiến thị trường lao động chuyển hóa sang một giai đoạn phát triển mới với việc hình thành thế giới việc làm 4.0.
Điều đó buộc GDNN phải đổi mới. Trước mắt, phải tái kỹ năng và nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động hiện có để đáp ứng những đòi hỏi về kỹ năng mới đang diễn ra ở mọi khâu của quá trình sản xuất, từ khâu lập kế hoạch, chuẩn bị nơi làm việc, đến vận hành thiết bị, giám sát quá trình, bảo đảm an toàn v.v... Về lâu dài, cần đổi mới căn bản GDNN, hướng tới mô hình mới gọi là GDNN 4.0. Đó là mô hình GDNN mở, linh hoạt và liên thông, với mục đích cung cấp cho người học những năng lực nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của thế giới việc làm 4.0, tạo điều kiện để người lao động thuận lợi và dễ dàng đến với GDNN, nâng cao trình độ kỹ năng suốt cuộc đời, theo điều kiện cụ thể, nhu cầu, nguyện vọng và sở thích cá nhân.
Tuy nhiên, sự xâm nhập của thế giới việc làm 4.0 vào thị trường lao động từng quốc gia sẽ rất khác nhau. Chẳng hạn ở các nước thu nhập cao có xu thế mất đi nhiều việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, nhưng lại tăng việc làm trong lĩnh vực dịch vụ. Ngược lại, ở các nước thu nhập trung bình vẫn có sự gia tăng việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt đối với ngành chế tạo. Nhìn chung, theo dự báo của WB năm 2019, tỷ lệ việc làm trong lĩnh vực công nghiệp ở các nước đang phát triển vẫn giữ ổn định, mặc dù có nhiều dự báo về mất việc làm gây ra bởi công nghệ.
Ở Việt Nam, GDNN cũng đang đổi mới theo xu thế chung của thế giới. Luật GDNN đã quy định: “Phát triển GDNN mở, linh hoạt, đa dạng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, liên thông giữa các trình độ GDNN và liên thông với các trình độ đào tạo khác”. Đây là chính sách có tầm nhìn chiến lược, nhưng đến nay, nhận thức về GDNN mở ở nước ta còn khá phân kỳ; việc đưa các tiến bộ của GDNN mở như tài nguyên giáo dục mở, khóa học trực tuyến mở đại chúng vào dạy và học trong GDNN vẫn còn là điều mới lạ.
Mặc dù có những tiến bộ nhất định, nhưng nhìn chung, GDNN Việt Nam vẫn đứng trước thách thức của hai thiếu hụt quan trọng: 1) thiếu hụt kỹ năng của người lao động so với yêu cầu của doanh nghiệp; 2) thiếu hụt người lao động có kỹ năng trước những việc làm mới, nhiệm vụ mới nảy sinh từ tiến trình hội nhập quốc tế và CMCN 4.0.
Yêu cầu bức thiết hiện nay không phải là đổi mới về chủ trương, chính sách mà đổi mới về tổ chức thực hiện. Có nhiều việc phải làm, trước mắt cần tập trung vào một số ưu tiên sau:
Một là, sớm hoàn thiện và tổ chức thực hiện KTĐQG với các chuẩn đầu ra được cụ thể hóa cho từng trình độ và từng ngành nghề trên cơ sở đồng thuận của các cơ quan quản lý, các cơ sở GDNN, các doanh nghiệp và các hội nghề nghiệp. Chỉ khi đó GDNN mới có được bản đồ năng lực thực hành nghề cần thiết để các chương trình đào tạo hướng tới nhằm đáp ứng yêu cầu biến động và liên thông của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế và CMCN 4.0.
Hai là, triển khai thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDNN công lập. Hiện trong Luật GDNN có một số quy định về quyền tự chủ mà cơ sở GDNN được thực hiện ngay không cần chờ nghị định hướng dẫn. Đó là tự chủ trong tuyển sinh; tổ chức biên soạn hoặc lựa chọn giáo trình; duyệt giáo trình để sử dụng làm tài liệu giảng dạy, học tập chính thức; in phôi và cấp bằng, chứng chỉ đào tạo cho người học; quản lý và sử dụng tài sản hình thành từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước. Riêng đối với cơ sở GDNN công lập tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện được chủ động xây dựng và quyết định mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh. Các quyền tự chủ này cần tổ chức triển khai ngay để các cơ sở GDNN được chủ động trong hoạt động đào tạo.
Ba là, từng bước xây dựng GDNN mở trên cơ sở áp dụng mạnh tiến bộ của công nghệ thông tin trong dạy và học, triển khai đào tạo trực tuyến, phát triển các tài nguyên giáo dục mở, khai thác các khóa học trực tuyến mở đại trà trong GDNN, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động cập nhật, nâng cao kỹ năng suốt đời./.