Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo kiệt xuất, vị lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, nhất là trong gần một phần tư thế kỷ là người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng đầu Nhà nước dân chủ, ở đỉnh cao của quyền lực, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có phong cách lãnh đạo dân chủ. Gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đề cao và phát huy sức mạnh của tập thể là phương châm chỉ đạo xuyên suốt mọi suy nghĩ và hành động của Người. Phong cách lãnh đạo dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm đẫm tính dân tộc, khoa học, cách mạng, cao cả và thiết thực; thể hiện trên mọi lĩnh vực, mang đậm dấu ấn riêng của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, văn hóa, đạo đức sâu sắc. Học tập và làm theo phong cách lãnh đạo dân chủ của Hồ Chí Minh có vị trí, ý nghĩa quan trọng cả về trước mắt và lâu dài, trực tiếp góp phần nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị ở nước ta, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
1. Phong cách lãnh đạo dân chủ là đặc trưng cơ bản, nổi bật trong phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc rèn luyện và thực hành phong cách lãnh đạo dân chủ, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Bởi theo Người, phong cách dân chủ hay cách làm việc dân chủ, là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có; trong lãnh đạo, quản lý mà thực hành dân chủ, tôn trọng các quyết định của tập thể, biết lắng nghe ý kiến của mọi người, thì sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, sáng tạo và quy tụ được sự đồng tình ủng hộ của nhiều người, tạo nên sức mạnh to lớn, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Người khẳng định: thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề, vì: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”[1].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách lãnh đạo dân chủ chính là mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lý không được đứng trên tập thể mà phải gắn bó với tập thể, tôn trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể; không bao giờ đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức mà luôn luôn tranh thủ bàn bạc với tập thể để có được quyết định chính xác và kịp thời nhất. Vì “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”[2], nên người cán bộ lãnh đạo phải biết động viên, khuyến khích để cho cấp dưới “cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, tức là để cấp dưới không sợ nói sự thật và cấp trên không sợ nghe sự thật.
Người lãnh đạo, quản lý có phương pháp lãnh đạo tốt, đồng thời cũng là người có phong cách lãnh đạo dân chủ, luôn biết mở rộng dân chủ rộng rãi để phát huy sức mạnh của tập thể; vì cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đề ra chủ trương, nghị quyết đã khó, nhưng khó hơn chính là ở khâu thực hiện - đây thuộc về vai trò của tập thể, của quần chúng. Do đó, có dân chủ, bàn bạc tập thể, mới cùng thông suốt, nhất trí, để cùng quyết tâm thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết đã đề ra; tránh được hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; tránh được sự mất đoàn kết vì sự chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ quan, v.v..
Phong cách lãnh đạo dân chủ phải được thể hiện từ việc lớn cho đến việc nhỏ, ở tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội; trong đó, người cán bộ lãnh đạo phải nhận và chịu trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao cho và tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo tinh thần: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”[3]. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”[4]. Do đó, trong lãnh đạo phải đề cao vai trò của tập trung, thực hiện tập trung trong Đảng để tạo sự thống nhất ý chí và hành động, tạo thành sức mạnh lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Cùng với tập trung, là đề cao thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong xã hội, làm cho Đảng tập trung được trí tuệ, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, nội bộ đoàn kết; nhân dân được phát huy cao nhất quyền làm chủ, thực hiện tốt vai trò dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát...
Đối lập với phong cách lãnh đạo dân chủ là phong cách lãnh đạo độc đoán, gia trưởng, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng, vô cảm, luôn áp đặt chủ quan, “độc tôn chân lý”... dẫn đến kìm hãm tính tích cực, sáng tạo của đảng viên và quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nêu lên trong thực tế, chúng ta đã ra sức kêu gọi phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái, nhưng cán bộ và đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái. Đó là vì lẽ gì? “Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì: Cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực. Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế”[5], v.v..
Phong cách lãnh đạo dân chủ của người cán bộ còn thể hiện ra trong công tác không được quyết định mọi việc theo ý kiến chủ quan của mình mà luôn mở rộng dân chủ, tranh thủ, động viên mọi người tham gia vào các quyết định khi tiến hành quản lý, điều hành và giải quyết các nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, trong công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện cần làm tốt việc phân công, phân cấp, phân quyền phù hợp, không ôm đồm, làm thay, chồng chéo... Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm được như vậy, không chỉ góp phần tạo sự đoàn kết, nhất trí trong tổ chức mà còn giúp cấp dưới và quần chúng chủ động trong việc thi hành công tác; tạo điều kiện để cán bộ, nhân viên trong tập thể có cơ hội phát huy sáng kiến, năng động, sáng tạo. Do đó, tinh thần làm việc được nâng cao, nhằm “đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân”[6]...
Để có phong cách dân chủ trong lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải thường xuyên hướng về cơ sở, bám sát cơ sở để tiếp xúc với quần chúng nhân dân, nắm tâm tư, nguyện vọng và thật sự quan tâm tới đời sống mọi mặt của quần chúng nhân dân; đồng thời phải tin yêu, tôn trọng quần chúng nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình xây dựng của quần chúng nhân dân. Người chỉ rõ, mỗi cán bộ không chỉ giáo dục, cổ vũ, động viên quần chúng nhiệt tình tham gia các phong trào thi đua, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm... mà còn phải học hỏi quần chúng và nêu gương cho quần chúng noi theo. Nhưng trong khi lắng nghe, phải thấm nhuần nguyên tắc “học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng”[7], “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”[8]. Bởi vì “trong quần chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau”[9]; do đó trong khi làm việc với quần chúng cần phải nắm vững tình hình, có phân loại quần chúng, để từ đó có biện pháp lãnh đạo hiệu quả, phát huy được những ưu điểm, hạn chế được những nhược điểm của bản thân trong công tác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên phải phê phán và đấu tranh khắc phục cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh mà cơ sở của nó là tách quyền hành của mình khỏi quyền lợi và nguyện vọng của tập thể, của quần chúng nhân dân; trốn tránh trách nhiệm, làm việc không theo nguyên tắc, quy định chung. Nhất là, trong công tác, chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác, nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được… Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ lãnh đạo nói là phải làm, “nói ít, bắt đầu bằng hành động” và “tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”[10]. Người yêu cầu các đồng chí phụ trách ở các bộ, ban, ngành và Trung ương phải thường xuyên đi kiểm tra và giải quyết công việc tại chỗ, phải chống bệnh giấy tờ, hội họp nhiều…; đồng thời cũng yêu cầu cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở là cấp gần dân, sát dân nhất nên lãnh đạo muốn thành công phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”[11], luôn sâu sát cơ sở, gắn bó với quần chúng nhân dân để “hỏi dân, học dân và hiểu dân”. Qua đó, mới có thể nắm được dân tâm, dân tình, dân ý; mới kiểm nghiệm được sự sát đúng của các chủ trương, chính sách; mới phát hiện được những nhân tố mới, điển hình tiên tiến để ủng hộ và nhân rộng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, muốn xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân, cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát huy điều hay, sửa chữa khuyết điểm; đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình, phải chống những bệnh hữu danh, vô thực, bệnh hình thức, kéo bè kéo cánh, dùng người cánh hẩu với mình… Làm được như vậy, sẽ góp phần “làm cho quần chúng mến Đảng, ra sức ủng hộ Đảng và tự giác, tự nguyện chịu Đảng lãnh đạo”[12]; “củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng... nhân dân thấm nhuần và thực hiện chính sách của Đảng”[13]… Theo đó, sẽ có sự đoàn kết thống nhất trong từng tổ chức cơ sở đảng, để mỗi người đều có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ chung, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực của phong cách lãnh đạo dân chủ. Đặc biệt, trong 24 năm ở vị thế một nguyên thủ quốc gia, nhưng không khi nào Hồ Chí Minh đặt mình ở trên nhân dân, ở xa nhân dân và không lắng nghe ý kiến của nhân dân, dù được nhân dân suy tôn là “Cha già dân tộc”. Thực tế, mỗi quyết định quan trọng liên quan đến chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao... của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đưa ra bàn bạc, thảo luận thấu đáo trong Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương và cao hơn nữa là các kỳ đại hội của Đảng. Mặt khác, bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chấp hành nghiêm các quyết định của tập thể. Trong cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6-1-1946), có nhiều ý kiến yêu cầu Người không phải ra ứng cử, nhưng Người đã viết một bức thư cảm tạ tình cảm của đồng bào, đồng chí và đề nghị đồng bào, đồng chí cho mình được thực hiện quyền và nghĩa vụ của một công dân.
Khi bàn về cách làm và xuất bản loại sách “Người tốt, việc tốt” với một số cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Không nên: Bác nói gì, các chú cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm, hay làm một cách qua loa”[14]. Trong những cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tạo ra không khí dân chủ, trân trọng và chú ý lắng nghe báo cáo và ý kiến của cán bộ. Mặt khác, Người rất chú ý đến ý kiến của nhân dân, những con người bình thường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Dù là người đứng đầu Đảng và Nhà nước nhưng Người luôn tôn trọng ý kiến tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân trong công việc; tự phê bình, nhận trách nhiệm trước Đảng, Quốc hội và nhân dân khi có khuyết điểm. Phong cách lãnh đạo dân chủ của Người thể hiện nhất quán, theo nguyên tắc: “Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng, vì cần cho quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại. Cách nào hợp với quần chúng, quần chúng cần, thì dù chưa có sẵn, ta phải đề nghị lên cấp trên mà đặt ra. Nếu cần làm thì cứ đặt ra, rồi báo cáo sau, miễn là được việc”[15] và “cách làm việc, cách tổ chức... của chúng ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: “Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng”[16].
2. Phong cách lãnh đạo dân chủ của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị ở nước ta có ảnh hưởng quan trọng đối với uy tín của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị cũng như đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng. Kế thừa và phát huy những nội dung, giá trị phong cách lãnh đạo dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào xây dựng, rèn luyện phong cách lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là việc làm có ý nghĩa thiết thực góp phần xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII gắn với thực hiện Kết luận số 21-KL/TW “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Đồng thời, trực tiếp khắc phục, ngăn chặn và đẩy lùi những yếu kém trong phong cách lãnh đạo độc đoán, gia trưởng, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chúng, vô cảm, áp đặt chủ quan, “độc tôn chân lý”… đã và đang tồn tại ở một bộ phận cán bộ hiện nay.
Theo đó, cấp ủy đảng các cấp phải thường xuyên chú trọng giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tập thể cấp ủy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thực hiện dân chủ trong sinh hoạt Đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo Điều lệ Đảng. Tiếp tục phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Phát huy tinh thần dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị; khắc phục tình trạng dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể hoặc độc đoán, chuyên quyền khi quyết định những vấn đề quan trọng. Phải gương mẫu trong thực hiện tự phê bình và phê bình trên tinh thần có tình thương yêu đồng chí, đồng chí; kiên quyết phê phán các hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Thực hiện nghiêm chế độ lãnh đạo, thường xuyên kiểm tra, giám sát để nâng cao chất lượng công tác; kịp thời xử lý nghiêm khắc những cán bộ vi phạm kỷ luật trong công tác lãnh đạo, quản lý; ngăn chặn, khắc phục các khuyết điểm, sai phạm của cán bộ, nhất là biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, độc đoán, chuyên quyền gây mất đoàn kết nội bộ. Bên cạnh đó, kịp thời lựa chọn, bồi dưỡng và nhân rộng những tấm gương điển hình tiên tiến của cán bộ trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo sự lan tỏa trong cơ quan, đơn vị.
Phong cách lãnh đạo dân chủ của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị không phải là bẩm sinh, sẵn có; mà là quá trình phấn đấu tu dưỡng, học tập và rèn luyện thực sự nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao của mỗi người. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải thấu triệt nội dung, giá trị phong cách lãnh đạo dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và coi đó là công việc thường xuyên, hằng ngày, là bổn phận, trách nhiệm, danh dự của chính mình, từ đó phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên để hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Đại tá PGS. TS Cao Văn Trọng
Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.284.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.378.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.620.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.620.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.283.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.75.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.333.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.337.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.336.
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.126.
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.233-234.
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.278.
[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.285.
[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.661.
[15] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.286.
[16] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.288.