1. Một số quan điểm sai trái thù địch xuyên tạc mối quan hệ “Nhà nước - thị trường - xã hội” trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Thời gian qua, các thế lực thù địch không ngừng ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Một trong những nội dung mà các thế lực này xuyên tạc, suy diễn, bôi nhọ nhiều nhất là những vấn đề liên quan đến xây dựng và hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam mà một trong những biểu hiện của nó là mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Chúng phủ nhận con đường đi lên CNXH, tấn công vào đường lối đổi mới, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước và xuyên tạc đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do đó, cần nhận diện rõ luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, để có những luận cứ phản bác thuyết phục. Các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc mối quan hệ “Nhà nước - thị trường - xã hội” trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam tập trung vào những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, phủ nhận mô hình KTTT định hướng XHCN, cho rằng kinh tế thị trường chỉ là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm này cho rằng: con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ tư bản chủ nghĩa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập với nhau. Kinh tế thị trường, các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng XHCN là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau như nước với lửa. Họ khuyên chúng ta nên bỏ định hướng XHCN, phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa như các nước phương Tây. Những quan điểm là nhằm làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào con đường phát triển kinh tế mà Đảng ta đã lựa chọn. Nhưng thực tế cho thấy rằng, KTTT có sự quản lý của Nhà nước là mô hình phát triển kinh tế mà nhiều nhà kinh tế học Phương Tây đã đưa ra vào giữa thế kỷ 20 mà đại diện là P.A.Samuelson với lý thuyết về nền Kinh tế Hỗn hợp nổi tiếng. Mỗi quốc gia có 1 cách can thiệp riêng, một liều lượng can thiệp riêng, phụ thuộc vào điều kiện quốc gia mình. Ở Việt Nam phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước, nhưng Nhà nước này là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân do dân và vì dân, phục vụ cho lợi ích của đông đảo nhân dân lao động.
Các nền kinh tế thị trường hiện đại ở các nước tư bản phát triển ngày nay đều là các nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Hơn nữa, tùy theo mức độ, nội dung và mục tiêu can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế có sự khác nhau ở các nước khác nhau, tạo nên nhiều mô hình kinh tế thị trường hiện đại khác nhau (kinh tế thị trường tự do ở Mỹ, kinh tế thị trường xã hội ở Đức, kinh tế thị trường phúc lợi xã hội ở các nước Bắc Âu, kinh tế thị trường nhà nước phát triển ở Nhật Bản và Hàn Quốc); nhưng xu hướng chung là đều có sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định môi trường cho sự phát triển kinh tế, nâng cao trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường của doanh nghiệp; đồng thời Nhà nước cung cấp các dịch vụ công thiết yếu, bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho các tầng lớp nhân dân, quan tâm tới giải quyết các vấn đề xã hội.
Các quan điểm thù địch cho rằng: xác định kinh tế nhà nước ở Việt Nam giữ vai trò chủ đạo sẽ tạo ra sự phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân, vì vậy không thể có kinh tế thị trường thật sự; việc lựa chọn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là không có tự do cạnh tranh. Đó đều là những quan điểm nhằm định hướng người dân từ bỏ mục tiêu CNXH.
Thực tế là từ sau đổi mới đến nay, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có quyền bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo đúng các quy định của pháp luật trên tất cả các lĩnh vực; không phân biệt đối xử hay hạn chế khả năng cạnh tranh của thành phần kinh tế tư nhân. Qua gần 40 năm đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định vai trò, vị thế của kinh tế tư nhân. Đảng ta đã thông qua 3 nghị quyết tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII: Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN; Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN; Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Ba nghị quyết này đã thể hiện rất rõ quan điểm và quyết tâm của Đảng ta về việc xây dựng một nền KTTT mang tính cạnh tranh cao, công bằng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế[1]”. Kinh tế tư nhân hiện đang đóng góp gần 45% GDP cả nước, khoảng 30% thu ngân sách nhà nước, hơn 40% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội, tạo ra công ăn việc làm cho 85% số lao động cả nước; chiếm tới 35% tổng kim ngạch nhập khẩu và 25% tổng kim ngạch xuất khẩu[2]. Những thay đổi trong chủ trương, chính sách đã tạo ra những động lực to lớn cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta. Đảng ta đã nhận thức rất đúng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển, kinh tế tư nhân là một trong số các thành phần kinh tế bình đẳng, cùng cạnh tranh lành mạnh theo đúng các quy định của pháp luật. Rõ ràng, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay không tồn tại sự phân biệt đối xử, kỳ thị hay ngăn trở kinh tế tư nhân.
Thứ hai, phủ nhận bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các thế lực thù địch, xuyên tạc rằng bản chất Nhà nước ta là “độc tài”, họ đòi Việt Nam sửa đổi Hiến pháp năm 2013, sửa đổi thể chế Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình “tam quyền phân lập”, coi nó là giải pháp cho kiểm soát quyền lực nhà nước và chống tham nhũng.
Tam quyền phân lập là nguyên tắc tổ chức của Nhà nước tư bản để không tập trung quá nhiều quyền lực nhà nước vào một cơ quan nhất định bằng sự phân chia quyền lực và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, tam quyền phân lập được đề xướng bởi các nhà tư tưởng lớn người Anh G. Lốccơ (1632-1704), người Pháp Sáclơ Lui đơ Môngtexkiơ (1689-1775), G.G. Rútxô (1712-1778). Các ông cho rằng, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng dẫn đến lạm quyền, chuyên quyền, bởi vậy, để ngăn ngừa các hành vi lạm quyền, chuyên quyền phải có thiết chế giới hạn, kiểm soát quyền lực nhà nước, mà cách tốt nhất là bằng pháp luật, bằng phân chia quyền lực nhà nước thành các nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự kiểm soát lẫn nhau giữa các nhánh. Tuy nhiên, mặc dù có sự phân chia quyền lực, sự độc lập, đối lập giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng tất cả đều phải tính đến phản ứng của nhân dân, của xã hội, phải sử dụng quyền lực trong phạm vi quy định của pháp luật. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; sứ mệnh, chức năng của Nhà nước là phục vụ nhân dân, cán bộ, công chức nhà nước là công bộc của dân; nhân dân và các tổ chức do nhân dân thành lập không chỉ tự chủ trong hoạt động, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân mà còn có quyền phản biện các chủ trương, chính sách của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Những nội dung này đều được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của đất nước. Chính điều này đã tạo nên sự đồng thuận xã hội, tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết toàn Đảng, toàn dân làm nên những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta những năm qua.
Thứ ba, họ cho rằng: Một đảng cầm quyền không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, trái với nguyên tắc pháp quyền; Chế độ một đảng cầm quyền là cản trở sự phát triển của đất nước, cổ súy cho đa nguyên, đa đảng, đòi chia quyền lãnh đạo, dẫn tới phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mục đích là phủ nhận vai trò duy nhất cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội Việt Nam. Đây là quan điểm nguy hiểm, bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề một đảng hay đa đảng với vấn đề phát triển. Họ cho rằng, một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng.
Thực tiễn cho thấy, dân chủ và sự phát triển của một nước không hoàn toàn phụ thuộc vào việc nước đó có bao nhiêu đảng chính trị. Vấn đề thuộc về bản chất của các đảng, lợi ích xã hội mà nó đại diện, bảo vệ; uy tín và năng lực tập hợp, liên kết, lãnh đạo các lực lượng xã hội cùng thực hiện mục tiêu chung của quốc gia - dân tộc. Nếu một đảng chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của đảng mình, giai cấp mình thì đảng đó khó có thể được các giai tầng khác chấp thuận làm lực lượng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo đất nước. Một đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp, của nhân dân và dân tộc, vì dân vì nước mà hành động chắc chắn sẽ được nhân dân suy tôn, ủy thác làm lãnh đạo. Vấn đề dân chủ cũng được các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng theo hướng tách rời dân chủ với điều kiện cụ thể của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và con người Việt Nam. Nhấn mạnh một chiều quyền làm chủ, quyền tự do của cá nhân con người, để kích động, lôi kéo các tâng lớp nhân dân hướng vào các giá trị dân chủ tư sản; cố tình bỏ qua một sự thật là, ở bất kỳ một nền dân chủ nào, dân chủ là người dân tuân theo pháp luật. Khuôn khổ luật pháp cho phép đến đâu thì dân chủ phát triển đến đó. Dân chủ gắn với thể chế chính trị, không thể có dân chủ trừu tượng, dân chủ phi chính trị và lịch sử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển tư tưởng dân chủ - giá trị chung của nhân loại. Dân chủ là khát vọng của con người. Trên cơ sở nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa truyền thống của dân tộc và tư tưởng dân chủ trong nền văn hóa chính trị Hy Lạp cổ đại và phương Tây cận, hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định dân chủ, tức là dân là chủ và dân làm chủ, quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân nhằm thực hiện quyền lực nhân dân: Một là, Nhà nước của dân, Người chỉ rõ: Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Hai là, Nhà nước do dân: Toàn bộ hệ thống quyền lực nhà nước đều do dân tổ chức nên. Dân bầu ra đại diện cho mình để cầm quyền; đồng thời có quyền kiểm soát, giám sát và bãi miễn khi họ không làm tròn sự ủy thác của dân. Ba là, Nhà nước vì dân: Nhà nước quản lý xã hội theo nguyên tắc “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Tất cả các hoạt động của Nhà nước đều phải nhằm vào việc thực hiện quyền lợi của nhân dân, trước hết là quyền lợi hằng ngày của nhân dân. Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đây là những quan điểm mang tính nguyên tắc, khái quát một vấn đề hệ trọng, phản ánh bản chất của chế độ xã hội. “Dân chủ” và “nhân dân làm chủ” trở thành một trong tám đặc trưng của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng. Xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu, đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và của mỗi người dân; gắn quyền lợi với trách nhiệm. Để dân chủ được thực hiện đầy đủ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, gồm: bản chất chế độ xã hội, năng lực thực thi của bộ máy công quyền, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm lịch sử, truyền thống văn hóa, dân trí... Vì thế, tránh giản đơn, nóng vội chủ quan, duy ý chí. Bên cạnh đó, việc xác định dân chủ còn là động lực phát triển có ý nghĩa hết sức quan trọng, mỗi bước tiến về dân chủ lại là động lực để thúc đẩy tiến bộ xã hội và ngược lại. Dân chủ phải được thực hiện trên thực tế, gắn với kỷ luật, kỷ cương và được thể chế hóa bằng pháp luật.
Phát triển và cụ thể hóa quan điểm thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn về hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong nhiều vấn đề quan trọng của đất nước, tiếp tục khẳng định bài học về “dân làm gốc”, về nội dung và phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện của người dân. Nhân dân tham gia và phát huy vai trò làm chủ trong nhiều hoạt động của bộ máy nhà nước theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đồng thời, xác định rõ vai trò các thành tố trong hệ thống chính trị trong phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, trước hết là phải thực hành dân chủ trong Đảng. Đảng phải đặc biệt chăm lo, củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhận thức nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua các kỳ Đại hội ngày càng được bổ sung, phát triển. Đảng ta luôn khẳng định, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, được thực hiện thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và bảo đảm bằng pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân do Hiến pháp quy định. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống, các cấp, các ngành và trên tất cả các lĩnh vực.
Thực tiễn phát triển đất nước qua gần 40 năm đổi mới cho thấy, việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam ngày càng tốt hơn: Về thực hành dân chủ trong Đảng Dân chủ trong Đảng có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự vận hành hệ thống chính trị, điều này không chỉ thể hiện bản chất của Đảng với tư cách là hạt nhân lãnh đạo, mà còn bảo đảm việc thực hành dân chủ trong toàn xã hội, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Việc thực hành dân chủ trong các cơ quan nhà nước có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực hành dân chủ được thể hiện cụ thể trong quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Các bản Hiến pháp, nhất là Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nhiều quy định liên quan đến quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân. Vai trò của người dân tham gia giám sát các hoạt động của cơ quan công quyền được đẩy mạnh. Việc tiếp xúc với người dân, giải quyết đơn, thư khiếu kiện có chuyển biến tích cực. Vai trò của các cơ quan truyền thông, báo chí được tăng cường. Các cơ quan tư pháp tiếp tục được kiện toàn theo hướng thượng tôn pháp luật.
Về thực hành dân chủ trong Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội Thực chất của phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và nhân dân nhằm huy động mọi nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển đất nước trong từng giai đoạn, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là phát huy vai trò tích cực, tự giác, sáng tạo của con người. Thực hành dân chủ trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từng bước được đổi mới; vai trò giám sát và phản biện xã hội được coi trọng.
Việc thực hành dân chủ trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng tốt hơn. Các quyền cơ bản tiếp tục được cụ thể hóa, như quyền được thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền đóng góp ý kiến xây dựng Đảng và chính quyền, quyền tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng; quyền thảo luận và giám sát các dự án, chương trình phát triển của đất nước... Dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế thể hiện tập trung ở quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng. Môi trường tự do kinh doanh, bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế ngày càng được bảo đảm trên thực tế. Các quyền của người dân được làm những gì pháp luật không cấm trong hoạt động kinh tế. Kinh tế tư nhân được coi là một động lực quan trọng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Trong điều kiện mới, Nhà nước đã đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, làm cơ sở cho việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực văn hóa và xã hội; đã thông qua việc ban hành một hệ thống các bộ luật liên quan, nhiều chính sách mới được ban hành.
2. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là câu trả lời đanh thép nhất phản biện các quan điểm sai trái thù địch
Việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là con đường phát triển quá độ, rút ngắn, đi tắt, đón đầu, giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài. Đặc điểm này càng khẳng định vai trò quan trọng của Nhà nước đối với thị trường và xã hội, bởi trong quá trình phát triển rút ngắn này, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bên cạnh các chức năng can thiệp cơ bản đối với thị trường và xã hội, còn là chủ thể tạo lập các điều kiện và cơ sở cần thiết về kinh tế, chính trị, xã hội cho quá trình phát triển quá độ, rút ngắn này. Nhà nước định hướng và định hình các mục tiêu, quỹ đạo phát triển của xã hội và của thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước định hướng, chi phối việc phát triển nền kinh tế hướng tới mục tiêu phát triển nền kinh tế nâng cao đời sống nhân dân, phát triển kinh tế đông thời thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, gắn kết giữa các mục tiêu kinh tế với xã hội, phát triển con người và bảo vệ môi trường. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng và hướng đến là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, vì vậy vai trò của Nhà nước đối với việc bảo đảm hài hòa xã hội và ổn định thị trường ngày càng trở nên quan trọng.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa tận dụng mặt mạnh của công cụ pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch và sức mạnh vật chất để giải phóng và phát triển năng lực sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường; đồng thời thực hiện chính sách xã hội tiến bộ, tạo sự công bằng và cơ hội cho tất cả mọi người thụ hưởng một cách chính đáng các thành quả phát triển và tăng trưởng kinh tế, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Sự can thiệp của Nhà nước nhằm hướng tới các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu văn hóa, xã hội, con người, môi trường nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, mỗi chính sách phát triển kinh tế luôn phải tính đến ổn định thị trường và ổn định xã hội. Nhà nước đã chú ý làm tốt chức năng định hướng phát triển kinh tế. Trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan, Nhà nước định hướng phát triển cho nền kinh tế, bảo đảm các cân đối vĩ mô trong tiến trình phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu; các lĩnh vực trọng tâm của nền kinh tế được cơ cấu lại theo hướng tích cực.
Tỷ lệ nghèo của Việt Nam giảm đáng kể trong gần 40 năm qua: Việt Nam đã thực sự đi đầu trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Tình trạng nghèo cùng cực đã giảm từ tỷ lệ cao nhất khoảng 40% ở những năm 1990 xuống dưới 5% vào năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều năm 2023 còn 2,93%.
Tỷ lệ nghèo đa chiều tính chung toàn quốc (gồm tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo) là 5,71%; tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo đa chiều là 1.586.336 hộ. Về số hộ nghèo, tính chung cả nước có tỷ lệ hộ nghèo là 2,93% (giảm 1,1% so với cuối năm 2022); tổng số hộ nghèo là 815.101 hộ.[3]
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá trong gần 40 năm Đổi mới, quy mô nền kinh tế không ngừng được mở rộng, GDP tăng từ 446 nghìn tỷ đồng tương đương 13 tỉ USD (235 USD/người) năm 1986 lên 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD (4.284,5 USD USD/người) năm 2023[4], tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao trong khu vực cũng như trên thế giới.
Sự tham gia của các tổ chức xã hội vào hoạch định chính sách ở Việt Nam, người dân có thể tham gia vào quy trình chính sách theo hình thức trực tiếp hoặc hình thức gián tiếp.
Với hình thức trực tiếp, người dân có thể tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (Điều 28 Hiến pháp năm 2013). Các hình thức tham gia trực tiếp ở cơ sở gồm: (i) Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; (ii) Phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình (Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007). Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, sửa đổi năm 2020 cũng quy định: Trong quá trình lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, các đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của chính sách và các cá nhân có liên quan có thể cho ý kiến về dự thảo văn bản, các cơ quan có thẩm quyền tổ chức nghiên cứu giải trình, tiếp thu các ý kiến góp ý đó.
Với hình thức gián tiếp, người dân có thể thực hiện quyền tham gia thông qua cơ quan đại diện của mình (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp). Về nguyên tắc, khi công dân có đủ điều kiện, được tín nhiệm, được bầu vào làm việc tại các cơ quan này thì được quyền trực tiếp xem xét và quyết định những vấn đề quan trọng, mang tính định hướng, giám sát các hoạt động của Nhà nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách thông qua internet, ngày càng trở nên phổ biến, nhanh chóng. Đây cũng là một kênh quan trọng để Nhà nước kịp thời nắm bắt và có sự điều chỉnh chính sách nhằm quản trị hiệu quả hơn, cung ứng dịch vụ công chất lượng tốt hơn.
Kết luận:
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn”, trong đó có mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội” [5]. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình phát triển, các quốc gia đều phải nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, chính sách phù hợp nhằm phát huy được các ưu điểm, đồng thời hạn chế những rủi ro, thất bại của cả ba thành tố trên trong quá trình phát triển của quốc gia mình. Việc nhận thức ngày càng rõ vị trí, vai trò mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội cũng như vị trí, vai trò của từng thành tố trong mối quan hệ ba bên có ý nghĩa rất quan trọng góp phần hoàn hiện mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần làm rõ một trong những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng.
Sau gần 40 năm đổi mới, “đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển... bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi... Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên... vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao”[6]. Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn ở mức cao. Từ một nước nghèo, kém phát triển, Việt Nam đã vươn lên đứng trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Những thành tựu kinh tế vượt bậc đó có được một phần quan trọng là do giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, là tác nhân thúc đẩy đổi mới kinh tế tích cực, giúp hiện thực hóa mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giúp cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày thêm vững chắc; nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững; Nền dân chủ XHCN ngày càng hoàn thiện./.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2021, t.1, tr.240
[2] https://vneconomy.vn/khu-vuc-tu-nhan-duoi-dan-cai-cach-manh-me-moi-truong-kinh-doanh-dua-doanh-nghiep-hoi-phuc.htm
[3] https://vneconomy.vn/ty-le-ho-ngheo-trong-ca-nuoc-la-2-93-tuong-duong-815-101-ho-ngheo-theo-chuan-ngheo-da-chieu.htm
[4] https://cafeland.vn/tin-tuc/gdp-binh-quan-dau-nguoi-viet-nam-uoc-dat-1019-trieu-dong-125943.html
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 119
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 65 - 66