"Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng 4.000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng, là bước ngoặt lớn trong lịch sử cách mạng nước ta.
Từ ngày có Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, các đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng qua các thời kỳ, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, liên tục tiến lên.
Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên nhiều kỳ tích, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa nước ta từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội và sánh vai với các cường quốc năm châu.
Với đường lối chính trị đúng đắn, trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, gắn bó máu thịt với nhân dân và tinh thần đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng đã quy tụ, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các phong trào đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh muôn vàn khó khăn, thách thức, Đảng tiếp tục khẳng định trình độ trí tuệ, bản lĩnh, tính tiên phong, với bản chất khoa học và cách mạng; đã khởi xướng, không ngừng hoàn thiện, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đưa Việt Nam từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, người dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, uy tín, vị thế trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Trên cơ sở đánh giá chính xác thế và lực của đất nước, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức, với quyết tâm chính trị cao hết lòng vì nước, vì dân, Đại hội XIII của Đảng đã hoạch định đường lối phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đặt ra các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Đi được 2/3 chặng đường, đến nay việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả có tính bước ngoặt. Diễn biến tình hình trong những năm gần đây cho thấy, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi mang tính thời đại.
Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác định trật tự thế giới mới. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, trong đó châu Á - Thái Bình Dương là địa bàn cạnh tranh quyết liệt nhất.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng với phương châm “không ngừng,” “không nghỉ,” “không có vùng cấm, không có ngoại lệ,” “bất kể người đó là ai,” “xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực.”
Đồng thời tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường công khai, minh bạch thông qua chuyển đổi số; mở rộng không gian phát triển; tạo thuận lợi cao nhất cho mọi hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, đóng góp xây dựng đất nước, nâng cao đời sống của Nhân dân của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, doanh nhân trong và ngoài nước.
Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát quyền lực với làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống cách mạng, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh.”
Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước, củng cố tiềm lực quốc gia. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập.
Thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư, sản xuất kinh doanh; huy động tối đa nguồn lực xã hội cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển con người toàn diện; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.
Tập trung cao độ các công việc để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng; tổ chức tốt việc tổng kết 40 năm đổi mới đất nước, kế thừa những thành tựu lý luận quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được các thế hệ lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết, đề ra đường lối đúng đắn, đưa đất nước tiếp tục phát triển toàn diện trong thời gian tới.
Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh; kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với truyền thống tốt đẹp, khí phách và tinh hoa của dân tộc, không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; với bản lĩnh, kiên định lý tưởng cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên; được Nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, công cuộc đổi mới đất nước nhất định giành thắng lợi to lớn, Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, ấm no, Đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh, hùng cường, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cũng là ước vọng của toàn dân tộc “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[2]./.
____________
[1] 35 năm thực hiện Di chúc của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.37.
[2] 35 năm thực hiện Di chúc của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.40.