Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo và luôn xác định giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra phương hướng: Phát triển giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học, công nghệ; phấn đấu trong những năm tới, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo; phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Đồng thời, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy giáo dục, đào tạo phát triển trong đó có việc quy hoạch và thực hiện xây dựng hệ thống mạng lưới các trường đại học trọng điểm quốc gia nhằm tạo ra những chuyển biến căn bản trong công tác giáo dục, đào tạo.
Học viện Cảnh sát nhân dân (CSND) đã trải qua gần 50 năm xây dựng, phát triển, hiện là một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học đầu ngành của Bộ Công an. Năm 2015, Bộ trưởng Bộ Công an đã ký Quyết định số 3999/QĐ-BCA-X11 công nhận Học viện CSND là cơ sở giáo dục trọng điểm của ngành Công an. Trong lộ trình phát triển theo kế hoạch của Chính phủ và Bộ Công an, Học viện CSND đang phấn đấu xây dựng nhà trường trở thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của quốc gia vào năm 2018 nhằm góp phần nâng cao vị thế và uy tín của lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam theo xu thế phát triển của thế giới và khu vực trong quá trình hội nhập quốc tế.
Thực hiện chủ trương trên, Đảng ủy, Ban Giám đốc Học viện giao cho các khoa, phòng chức năng đã nghiên cứu và tìm hiểu về mô hình các trường đại học trọng điểm và đại học chất lượng cao nói chung và trong hệ thống các trường An ninh, Cảnh sát ở trong và ngoài nước để thấy rõ hơn tính ưu việt của mô hình này. Theo đó, Để xây dựng các “đầu tàu”, tập trung nguồn nhân lực, vật lực trong hệ thống giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục và đào tạo nước ta và ngành An ninh, Cảnh sát các nước đều thành lập các đại học trọng điểm. Đây là những nhà trường đại học đứng hàng đầu quốc gia hoặc đứng hàng đầu các Học viện, nhà trường An ninh, Cảnh sát trong quốc gia. Các nhà trường này có cơ cấu tổ chức, cách thức quản lý và phương thức đào tạo, chương trình đào tạo riêng. Cụ thể là:
1. Về tổ chức, bộ máy: Các trường trọng điểm ngoài các khoa, bộ môn như các trường khác, thường thành lập các viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu - sản xuất trực thuộc. Có nhiều mô hình tổ chức các trung tâm nghiên cứu - sản xuất như trung tâm trực thuộc các trường đại học, học viện và trung tâm trực thuộc các khoa. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã chuyển các đơn vị trực thuộc thành các Viện đào tạo và Viện nghiên cứu, Trung tâm nghiên cứu. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội có 50 viện, ban cấp cục trực thuộc; trực thuộc Trường đại học Kinh tế quốc dân có Viện đào tạo sau đại học và 12 viện nghiên cứu khác, trực thuộc Học viện Tài chính có Viện Nghiên cứu Tài chính; trực thuộc Học viện Ngân hàng có Viện Khoa học Ngân hàng; trực thuộc Học viện Chính trị Quân sự có Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự; trực thuộc Học viện Quốc phòng có Viện Khoa học quân sự, trực thuộc Học viện Kỹ thuật quân sự có 11 trung tâm và 2 công ty trực thuộc Học viện và nhiều trung tâm nghiên cứu trực thuộc khoa...
2. Về đội ngũ cán bộ: Các trường trọng điểm được tập trung một đội ngũ cán bộ giảng dạy có trình độ cao. Thường các nhà trường này được giao nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo giảng viên cho các Học viện, nhà trường khác cùng hệ ngành. Theo Đề án của Chính phủ, đội ngũ giảng viên của các đại học trọng điểm quốc gia phải có trình độ Tiến sĩ từ 70% tổng số giảng viên trở lên.
3. Về cơ chế quản lý: Với 16 trường đại học trọng điểm quốc gia hiện nay, Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phân cấp quản lý nhiều khâu như: Trường được tự in và cấp bằng Tiến sĩ, được quyền quyết định chỉ tiêu tuyển sinh, quyết định ban hành ngành đào tạo mới, Hiệu trưởng được quyền đề bạt, bổ nhiệm Chủ nhiệm các Khoa, Bộ môn, được toàn quyền tuyển giảng viên, được chủ động mời và tiếp nhận giảng viên, học viên nước ngoài đến học...
4. Về cơ chế tài chính và cơ sở vật chất: Các nhà trường trọng điểm quốc gia được ưu tiên đầu tư tài chính nên có cơ sở vật chất tốt nhất trong hệ thống các nhà trường. Các nhà trường này được quyền tự chủ tài chính, được vay vốn ưu đãi để phục vụ công tác giáo dục và đào tạo kể cả vay nguồn vốn ODA để phát triển giáo dục. Như Trường Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2008 đã xây dựng Thư viện Trần Đại Nghĩa trị giá 250 tỷ đồng, được xây dựng chủ yếu bằng nguồn vốn tự có thu từ sản xuất, bán hàng cùng với kinh phí đào tạo hệ chính quy và không chính quy. Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang thí điểm giao Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tự quyết định lương trả cho cán bộ, giảng viên.
5. Về công tác thông tin, xuất bản: Các trường được đầu tư xây dựng các Thư viện hiện đại, như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Đà Nẵng, Đại học Thái Nguyên, Học viện Nông nghiệp Việt Nam...
Các trường ngoài tạp chí khoa học phát hành bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài còn được thành lập Nhà xuất bản riêng như các Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội...
6. Về quan hệ quốc tế: Các trường trọng điểm được giao quyền tự quyết trong quan hệ quốc tế. Hiệu trưởng được quyền quyết định cử cán bộ đi công tác nước ngoài; quyết định liên kết đào tạo hệ đại học và sau đại học với các trường đại học trong và ngoài nước.
Ở nước ta hiện nay có 16 cơ sở đào tạo được chọn xây dựng thành đại học trọng điểm quốc gia bao gồm: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Cần Thơ, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Kỹ thuật quân sự (Bộ Quốc phòng).
Theo kế hoạch, Chính phủ sẽ xây dựng 22 trường đại học trọng điểm quốc gia có trình độ đào tạo và nghiên cứu tiên tiến, làm đầu tàu cho sự phát triển mạng lưới các trường đại học Việt Nam. Hiện nay có 6 trường đại học đang phấn đấu và được Chính phủ quy hoạch thành trường đại học trọng điểm quốc gia gồm: Học viện Quân y (Bộ Quốc phòng), Đại học Xây dựng Hà Nội, Đại học Vinh, Đại học Quy Nhơn, Học viện An ninh nhân dân, Học viện Cảnh sát nhân dân (Bộ Công an).
Nghiên cứu hệ thống các nhà trường An ninh, Cảnh sát các nước cho thấy, tùy thuộc vào quy mô đào tạo của các quốc gia, thường mỗi nước xây dựng từ 1-2 trường đại học trọng điểm quốc gia như: Liên Bang Nga có Học viện chỉ huy, lãnh đạo Bộ Nội vụ Liên bang Nga, Học viện An ninh quốc gia mang tên Ph.E.Dgiecdinxki thuộc Cơ quan An ninh Liên Bang Nga; Trung Quốc có Đại học Quốc gia Công an nhân dân thuộc Bộ Công an, Đại học Quốc tế thuộc Bộ An ninh quốc gia; Thái Lan có Học viện Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan; Hoa Kỳ có Học viện Cơ quan điều tra Liên bang FBI, Học viện Cơ quan chống ma tuý Liên bang DEA; Indonesia có Học viện Cảnh sát quốc gia Indonesia; Hàn Quốc có Đại học Cảnh sát quốc gia Hàn Quốc; Nhật Bản có Học viện Cảnh sát quốc gia Nhật Bản... Đây là các học viện, nhà trường có quy mô đào tạo, đội ngũ giảng viên lớn nhất, cơ sở vật chất tốt nhất và là cấp đào tạo cao nhất trong hệ thống các Học viện, Nhà trường an ninh, cảnh sát các nước.
Sau 7 năm thực hiện Quyết định 1229 phê duyệt Đề án Quy hoạch tổng thể, nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong Công an nhân dân đến năm 2020, đặc biệt là khi Học viện Cảnh sát nhân dân trở thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm của Bộ Công an vào năm 2015, Học viện Cảnh sát nhân dân đã xây dựng lộ trình và bước đi cụ thể để Học viện đạt cơ sở trọng điểm quốc gia vào năm 2019. Đến nay, công tác chuẩn bị về cơ bản đã hoàn thành theo đúng lộ trình đặt ra: Đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục của Học viện Cảnh sát nhân dân đã và đang không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng; Hoạt động nghiên cứu khoa học ngày càng được đẩy mạnh, phát triển sâu rộng; chất lượng đào tạo của Học viện không ngừng được nâng cao; cơ sở vật chất không ngừng được đầu tư phát triển theo hướng hiện đại và có sự phát triển vượt bậc trong giai đoạn vừa qua... Tuy nhiên, xem xét tổng thể về tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học viện CSND hiện nay cho thấy một số bất cập sau:
1. Về tổ chức bộ máy: Mặc dù được đổi tên là Học viện từ năm 2001 và hiện nay có 46 đầu mối trực thuộc (bộ máy lớn nhất trong các nhà trường CAND) nhưng về cơ bản đến nay tổ chức, bộ máy của Học viện CSND chưa khác nhiều so với trước đây là Trường Đại học CSND.
2. Về đội ngũ cán bộ, giảng viên: Vẫn còn mỏng so với các Nhà trường đại học trọng điểm quốc gia khác, nhất là số cán bộ có trình độ Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ. Hiện nay với gần 1500 cán bộ và giảng viên, Học viện mới có 22 Giáo sư (7 Giáo sư kiêm chức), 76 Phó Giáo sư (22 Phó Giáo sư kiêm chức), 201 Tiến sĩ, hơn 400 Thạc sĩ. Trong khi đó, với hơn hơn 1000 cán bộ, Học viện Kỹ thuật quân sự (Bộ Quốc phòng) có gần 100 Giáo sư và Phó Giáo sư, 237 Tiến sĩ khoa học và Tiến sĩ chuyên ngành, hơn 400 Thạc sĩ; với hơn 1000 cán bộ, Học viện Quân y (Bộ Quốc phòng) có gần 100 Giáo sư và Phó Giáo sư, gần 300 Tiến sĩ và 300 Thạc sĩ.
3. Về cơ chế quản lý: Học viện hiện nay còn được giao rất ít quyền tự chủ về giáo dục và đào tạo như không có các quyền tự quyết định mã ngành mới, quyền quyết định chỉ tiêu tuyển sinh...
4. Về đào tạo: Chương trình đào tạo đại học, cao học còn chưa đề cập được nhiều những vấn đề mới của hoạt động nghiệp vụ Cảnh sát và pháp luật quốc tế như về đấu tranh phòng chống các loại tội phạm mới, các vấn đề pháp luật quốc tế hiện đại như dẫn độ tội phạm, tương trợ tư pháp hình sự, chuyển giao phạm nhân quốc tế, vấn đề xu hướng phát triển của lực lượng Cảnh sát trong điều kiện cải cách và mở cửa, hội nhập...
Về đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo đại học, cao học và Tiến sĩ mặc dù nhà trường đã tập hợp được các cán bộ khoa học có trình độ cao đang công tác trong Bộ Công an, nhưng việc thu hút các nhà khoa học giỏi bên ngoài ngành Công an, mời các chuyên gia quốc tế vào công tác này còn chưa được nhiều, đội ngũ còn mỏng.
5. Công tác thông tin khoa học của Học viện cũng còn hạn chế: Trong những năm qua, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và các cơ quan chức năng, Học viện CSND đã được đầu tư xây dựng hệ thống Thư viện. Thư viện của Học viện đã ứng dụng Công nghệ thông tin, hệ thống các phần mềm tư liệu, thư viện, từng bước tin học hóa công tác quản lý thư viện, thông tin tư liệu. Hệ thống cơ sở dữ liệu của thư viện đã được số hóa đưa vào sử dụng, bước đầu đáp ứng nhu cầu nghiên cứu phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên và học viên trong toàn Học viện CSND. Mặc dù Học viện đã được Bộ đầu tư trang bị một dự án Thư viện 12 tầng và Chính phủ Hàn Quốc giúp đỡ 01 Dự án Xây dựng Thư viện điện tử tại Học viện Cảnh sát nhân dân trị giá 2,2 triệu USD nhưng số sách báo, tài liệu của Học viện mới chỉ có 6,3 vạn, chưa đạt tiêu chuẩn 8 vạn sách báo, tài liệu của một Thư viện trường đại học. Những hạn chế về thư viện, hệ thống thông tin, tư liệu cộng với sự bất cập trình độ của một bộ phận đội ngũ cán bộ, giảng viên đã dẫn tới các nhà trường Công an nói chung, Học viện CSND nói riêng tụt hậu so với các trường đại học trong nước và quốc tế.
6. Quan hệ quốc tế về đào tạo và hợp tác nghiên cứu khoa học: Chương trình hợp tác quốc tế của Học viện còn khiêm tốn. Tài liệu tham khảo cho học viên bằng ngoại ngữ ít. Cán bộ giảng dạy và Học viên cao học, nghiên cứu sinh ít có điều kiện tham khảo kinh nghiệm nước ngoài như các cơ sở đào tạo sau đại học khác ở nước ta. Hiện nay Học viện đã và đang đào tạo cán bộ cho Ngành Công an, Cảnh sát hai nước bạn Lào và Campuchia nhưng chỉ giảng dạy bằng tiếng Việt. Học viện mới chỉ có 01 Chương trình Thạc sĩ liên kết đào tạo với Trường Đại học tổng hợp Maryland, Hoa Kỳ dạy và học bằng tiếng Anh.
Từ tình hình thực tế trên đây, để góp phần xây dựng Học viện ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu là Học viện Cảnh sát đầu ngành của nước lớn thứ hai trong khu vực ASEAN, từ thực tiễn trong nước và trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức xây dựng các Nhà trường đại học trọng điểm của Ngành và của quốc gia trong và ngoài nước, chúng tôi xin có một số đề xuất sau:
Thứ nhất, đề nghị Bộ Công an tích cực triển khai chủ trương của Chính phủ về đầu tư xây dựng Học viện CSND (cùng với Học viện ANND) thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm và chất lượng cao của quốc gia.
Thứ hai, đề nghị Bộ Công an ban hành Quyết định mới về chức năng, nhiệm vụ của Học viện CSND, trong đó Học viện có 05 chức năng chính:
- Đào tạo bậc đại học, sau đại học (cao học, nghiên cứu sinh) cho lực lượng CSND;
- Đào tạo giảng viên cho các Nhà trường CSND toàn quốc;
- Đào tạo Lãnh đạo, chỉ huy cho cán bộ trung và cao cấp của lực lượng CSND toàn quốc;
- Trực tiếp tổ chức nghiên cứu khoa học, sản xuất, chiến đấu bảo vệ ANQG, TTATXH;
- Tổ chức công tác thông tin khoa học cho lực lượng CSND toàn quốc.
Về tổ chức bộ máy, đề nghị cho phép Học viện CSND (cùng với Học viện ANND) có tổ chức, bộ máy tương đồng với một Học viện theo đúng nghĩa như trực thuộc Học viện sẽ có các phòng, ban, viện nghiên cứu, các trung tâm đào tạo, huấn luyện, chiến đấu, có nhà xuất bản... theo mô hình mới của Bộ Công an.
Về cơ chế quản lý tổ chức cán bộ, Bộ giao cho Giám đốc Học viện ANND và Học viện CSND thẩm quyền cán bộ cao nhất trong nhóm các cơ quan trực thuộc Bộ.
Đề nghị Bộ phân cấp, phân quyền quản lý cán bộ cho Học viện theo nguyên tắc lực lượng vũ trang kết hợp quản lý hành chính nhằm phát huy vai trò của tri thức, năng lực sáng tạo, nghiên cứu, giảng dạy của đội ngũ khoa học, tri thức.
Xây dựng một đội ngũ cán bộ giảng dạy chuyên trách và các giảng viên thỉnh giảng để thực hiện công tác đào tạo đại học, sau đại học tại Học viện CSND.
Thứ ba, về cơ chế quản lý đào tạo, Bộ Công an và Bộ Giáo dục và Đào tạo phân cấp cho Giám đốc Học viện được quyết định chỉ tiêu tuyển sinh đối với các hệ đào tạo không liên quan đến biên chế, tuyển dụng CAND (trước hết là đối với hệ đào tạo sau đại học và hệ không chính quy, hệ dân sự), mở các mã ngành đại học và sau đại học. Đề nghị mở rộng các hệ đào tạo đại học, sau và trên đại học theo hướng đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực tại Học viện CSND trong đó tập trung đào tạo các chuyên ngành đặc thù liên quan trực tiếp đến việc tổ chức, bố trí nguồn nhân lực của lực lượng CSND hiện tại và nhu cầu phát triển trong tương lai; những ngành mà nhu cầu công tác, chiến đấu đang cần nhưng chưa được đào tạo một cách bài bản. Tổ chức giảng dạy một số môn học bằng tiếng Anh.
Về hệ đại học, mở các mã ngành Cử nhân Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Cử nhân Tình báo cảnh sát... Về hệ sau đại học: ngoài các mã ngành đào tạo hiện nay, đề nghị mở một số mã ngành đào tạo mới, trước mắt là các mã ngành Luật, Hành chính. Về lâu dài, mở các mã ngành mới tích hợp các chương trình đào tạo đại học, sau đại học phù hợp với chủ trương đổi mới bộ máy Công an nhân dân.
Bên cạnh đó, đề nghị Bộ tiếp tục tạo điều kiện để Học viện được thực hiện nhiệm vụ đào tạo cao cấp lý luận chính trị.
Thứ tư, về cơ chế tài chính, Bộ phân cấp cho Giám đốc Học viện quyền tự chủ tài chính, quyền tự chủ hậu cần. Được ưu tiên đầu tư tài chính và vay vốn ưu đãi để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ công tác giáo dục, đào tạo, trong đó có các nguồn vốn ODA để phát triển giáo dục.
Bộ xác định Học viện CSND như một đầu mối đầu tư và trang cấp các trang bị phương tiện nghiệp vụ như Công an các tỉnh, thành phố và các Cục nghiệp vụ Cảnh sát.
Thứ năm, đề nghị Bộ Công an tiếp tục cho phép Học viện được liên kết toàn diện như trong công tác giáo dục, đào tạo với một số nhà trường đào tạo Cảnh sát trong khu vực và trên thế giới, các trường đào tạo về Luật, Tội phạm học, Hành chính công… để “nhập khẩu” một số chương trình đào tạo liên kết, tổ chức đào tạo và công nhận tín chỉ đối với một số học phần có nội dung và kiến thức tương đương trong chương trình đào tạo. Nhà trường được chủ động trao đổi, ký kết các hợp tác khoa học, trao đổi học viên theo hình thức “du học một kỳ”, “du học nhiều kỳ”, trao đổi cán bộ, giảng viên, đồng tổ chức hội thảo khoa học quốc tế về các vấn đề an ninh phi truyền thống, phòng chống khủng bố, chống mua bán người, tình trạng di cư bất hợp pháp… với các Nhà trường Cảnh sát thế giới và khu vực.
Trong hợp tác quốc tế chọn một số vấn đề ưu tiên trọng tâm: Liên kết với Nhà trường nước ngoài trong đào tạo hệ Tiến sĩ, Thạc sĩ và học viên Lớp chất lượng cao; đào tạo chuyên ngành Công nghệ thông tin chống tội phạm công nghệ cao theo Chương trình tiên tiến; xây dựng các dự án hợp tác quốc tế về đào tạo Cảnh sát. Đặc biệt, Học viện sẽ xây dựng đề án báo cáo lãnh đạo Bộ Công an cho phép thành lập Trung tâm đào tạo lực lượng Cảnh sát gìn giữ hòa bình, có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ Cảnh sát của Việt Nam trong việc hỗ trợ, tham gia thực hiện các nhiệm vụ trong đấu tranh phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm phi truyền thống… trong khu vực ASEAN và các khu vực khác theo sự phân công điều động của Bộ Công an
Về lộ trình triển khai:
- Năm 2018: được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận đạt “Chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục đại học” ( Điểm 4 Điều 68 Luật Giáo dục đại học).
- Năm 2019 được Bộ Công an và Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trở thành “Cơ sở giáo dục đại học trọng điểm” (Điểm d, Mục 2, Điều 11 Luật Giáo dục đại học).
Đối với Học viện Cảnh sát nhân dân, trở thành trường đại học trọng điểm và trường chuẩn quốc gia là niềm vinh dự và tự hào, đánh dấu sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ, giảng viên, công nhân viên Học viện. Tuy nhiên, để xứng đáng với “trường đại học trọng điểm đạt chuẩn quốc gia”, Học viện cần có những lộ trình cụ thể trên tất cả các mảng công tác: Giảng dạy, nghiên cứu khoa học cà các mặt công tác khác. Trong khi đó, theo đúng lộ trình, khi Bộ Công an thực hiện đổi mới cơ cấu tổ chức theo Đề án “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (Đề án 106) cũng là thời điểm Học viện trở thành trường đại học trọng điểm đạt chuẩn quốc gia. Trong thời điểm đó, Học viện chắc chắn sẽ có những đổi mới về mặt cơ cấu tổ chức theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Do đó, trong thời gian tới, để xây dựng Học viện Cảnh sát nhân dân trở thành trường đại học trọng điểm đạt chuẩn quốc gia trong xu thế phát triển của thế giới và khu vực, Học viện cần chú trọng vào những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, phát triển theo hướng là Trường đa ngành, đa lĩnh vực và đổi mới giáo dục đào tạo với hai giải pháp chính là gắn giáo dục đào tạo với thực tiễn và mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Về đào tạo đại học sẽ mở thêm một số chuyên ngành mới như Cử nhân chỉ huy tham mưu Cảnh sát theo định hướng nghiên cứu 5 năm để đào tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cho lực lượng CSND Việt Nam, Cử nhân quản lý nhà nước - hành chính học, một số chuyên ngành Luật, Cử nhân chất lượng cao an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Cử nhân chất lượng cao Cảnh sát môi trường. Về đào tạo sau đại học sẽ mở rộng thêm các chuyên ngành Thạc sĩ và Tiến sĩ về Luật và Khoa học An ninh. Phấn đấu đến 2020, Học viện CSND sẽ có một số chuyên ngành đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ dạy và học hoàn toàn bằng tiếng Anh.
Học viện sẽ tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chức danh cho lực lượng CAND và đào tạo giảng viên cho các Trường CSND; mở rộng đào tại hệ dân sự cho các ngành nội chính và cho xã hội.
Về đào tạo quốc tế phấn đấu trở thành một Trung tâm lớn đào tạo Cảnh sát cho khu vực ASEAN và một số quốc gia trên thế giới. Phấn đấu đến 2020 Học viện có khoảng 300 - 400 học viên quốc tế theo học.
Thứ hai, phấn đấu có nhiều đề tài khoa học lớn, giải quyết những vấn đề mới và bức súc về an ninh, trật tự của đất nước.
Học viện tập trung triển khai các đề tài cấp Nhà nước và các đề tài nghiên cứu khoa học của Bộ Công an, Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Chuẩn hóa toàn bộ hệ thống giáo trình, tài liệu giảng dạy bậc đại học và sau đại học Cảnh sát. Biên soạn và xuất bản những bộ sách lớn như: Cẩm nang Cảnh sát Việt Nam; Bách khoa Cảnh sát ASEAN, Bách khoa Cảnh sát thế giới, Từ điển Công an Nga - Việt, Từ điển Công an Anh - Việt, Từ điển Công an Pháp - Việt Từ điển Công an Trung - Việt, Từ điển Công an Việt Nam - Lào...
Thứ ba, tăng cường đào tạo cán bộ, giảng viên. Việc đào tạo đội ngũ giảng viên được nhà trường tiếp tục được tiến hành trên 4 phương diện: đào tạo về đạo đức nhà giáo; về trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm; kỹ năng nghiên cứu khoa học và kỹ năng thực hành - thực tiễn, tập trung vào 3 khâu: Đào tạo giảng viên và chuyên gia đầu đàn, đào tạo cán bộ nữ và đào tạo cán bộ trẻ. Phấn đấu đến 2020 có 20 Giáo sư, 80 Phó Giáo sư, 300 Tiến sĩ, 300 giảng viên chính, đạt chuẩn của Trường trọng điểm quốc gia. Một số chuyên ngành phấn đấu có chuyên gia đầu đàn ở Việt Nam và trong lực lượng CAND như: Tội phạm học, Khoa học trinh sát, Khoa học hình sự và Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự.
Thứ tư, xây dựng Học viện CSND trở thành nhà trường xanh, sạch, đẹp, thông minh và hiện đại.
Học viện tập trung vào 3 khâu: xây dựng và hiện đại hóa các phòng học và phòng thực hành, giảng đường, nơi làm việc của cán bộ, giảng viên; đầu tư xây dựng, nâng cấp các ký túc xá học viên; xây dựng nhà ở cho cán bộ, giảng viên.
Phấn đấu hoàn thiện Đề án “Xây dựng Học viện Cảnh sát nhân dân thông minh” với 4 trụ cột chính là: Xây dựng Học viện Cảnh sát nhân dân điện tử theo mô hình Chính phủ điện tử; Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý giáo dục và giảng dạy, học tập; Xây dựng các giảng đường thông minh; Đưa vào triển khai Thư viện điện tử. Hiện nay và trong những năm tiếp theo, tiếp tục xác định “Học viện Cảnh sát nhân dân thông minh” là bước đột phá để vươn tới đại học trọng điểm quốc gia và đáp ứng yêu cầu Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Phấn đấu để Học viện CSND có khuôn viên đẹp và hiện đại trong các Trường đại học Việt Nam với nhiều công trình giáo dục văn hóa truyền thống.
Mặc dù công tác đào tạo của Học viện CSND đang còn rất nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với những kết quả đã đạt được và năng lực hiện có của mình, cùng với sự quan tâm tâm đầu tư, tạo điều kiện về mọi mặt của Chính phủ, Bộ Giáo dục đào tạo, Bộ Công an, đó chính là những cơ sở quan trọng để xây dựng Học viện CSND sớm trở thành cơ sở giáo dục đại học trọng điểm đạt chuẩn quốc gia và hướng tới hội nhập với khu vực và thế giới, làm đầu tầu cho sự phát triển mạng lưới các trường đại học Việt Nam, xứng đáng là đơn vị hai lần được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân.